Việt Nam đặt ra chủ trương quy hoạch mạng lưới trường đại học từ những năm 90
Đó là thông tin mà Tiến sĩ Lê Viết Khuyến tiết lộ với Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam.
Theo Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam thông tin, từ nay đến năm 2020, Việt Nam không thành lập, nâng cấp trường đại học nào nữa thì vẫn vượt mục tiêu Quyết định 37 (về việc điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, giai đoạn 2006-2020) đề ra 12 trường đại học.
Và vấn đề quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục theo tinh thần Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học vừa được Quốc hội thông qua một lần nữa là nội dung đang được dư luận quan tâm.
Một số chuyên gia cho rằng, đưa vào luật việc quy hoạch mạng lưới trường đại học trong thời điểm hiện nay là cần thiết, nhằm tạo hành lang pháp lý để các trường đại học có thể bứt phá phát triển hoặc sáp nhập một số trường đại học tạo nên những đại học mạnh.
Số lượng và phân bố các trường đại học trên toàn quốc (Nguồn: Vụ Giáo dục Đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2017)
Trao đổi với Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến – nguyên Phó vụ trưởng vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, đây không phải là lần đầu tiên đưa ra chủ trương quy hoạch mạng lưới các trường đại học mà đầu những năm 90 của thế kỷ trước vấn đề này đã được đưa ra.
Cụ thể, ông Khuyến cho hay, ngày 17/3/1992, lúc đó Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Hồng Quân đã có tờ trình Hội đồng Bộ trưởng về quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng trên quy mô toàn quốc.
Theo đó, tờ trình nêu rõ: Thực hiện Quyết định 255/CT của Hội đồng Bộ trưởng, trong thời gia qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai xây dựng các phương án sắp xếp mạng lưới các trường đại học và cao đẳng trên quy mô toàn quốc với tinh thần khẩn trương nhưng cũng hết sức thận trọng.
Nếu thực hiện quy hoạch trường theo phương án này, chúng ta sẽ có một hệ thống các trường gần giống với hệ thống trường đã có trong những năm 60, khi chưa xảy ra chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, tức là hệ thống trường được thiết kế cho nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng đây là một công việc cực kỳ quan trọng có tác dụng rất quyết định đến sự phát triển giáo dục, là cơ hội để thực hiện đổi mới hệ thống đại học một cách cơ bản, làm cho nó phù hợp với cơ chế kinh tế mới và hòa nhập dần vào cộng đồng đại học thế giới.
Tuy nhiên việc sắp xếp này có tác dụng lâu dài, lại động chạm đến đông đảo đội ngũ cán bộ giảng dạy nên phải cân nhắc kỹ để chọn phương án tối ưu.
Theo đó, các nhóm chuyên gia khác nhau của Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng được 4 phương án sắp xếp lại mạng lưới các tường đại học và cao đẳng trên quy mô toàn quốc. Có thể gộp các phương án thành 2 nhóm:
Nhóm 1 (bao gồm các phương án 1,2, 3) được thiết kế theo nguyên tắc sáp nhập các trường đại học và cao đẳng có ngành nghề đào tạo gần giống nhau và nằm trên cùng một địa bàn để hình thành những viện đại học chuyên ngành lớn hơn.
Nhóm 2 (phương án 4) được thiết kế theo quan điểm hoàn toàn mới xuất phát từ: Thực tiến chỉ đạo triển khai quy trình đào tạo mới ở các trường đại học; Kết quả sơ bộ của giai đoạn 1 đề án nghiên cứu tổng thể giáo dục (VIE-89/022); Kinh nghiệm giáo dục đại học của các nước phát triển và các nước trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương.
Mạng lưới đại học và cao đẳng được sắp xếp lại theo phương án này nhằm đạt những mục tiêu sau:
Thứ nhất, bảo đảm tính hợp lý về đầu mối và quy mô của cơ sở đào tạo để tăng hiệu quả của các nguồn đầu tư, hiệu quả sử dụng cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu và cơ sở vật chất và rút bớt biên chế đội ngũ cán bộ nhân viên hành chính sự nghiệp.
Mạng lưới mới cũng sẽ giúp để thực hiện tốt việc quản lý hệ thống (vừa đảm bảo hiệu lực của quản lý nhà nước vừa phát huy được tính năng động của cơ sở). Thứ hai, bảo đảm thuận lợi cho việc tổ chức và triển khai quy trình đào tạo mới trong các trường đại học và cao đẳng để quy trình này thể hiện tối đa những ưu việt của nó (đào tạo 2 giai đoạn, đảm bảo kiến thức cơ bản vững, liên thông giữa các trường, mở rộng tuyển sinh đầu vào…).
Thứ ba, mạng lưới và hệ thống pháp quy kèm theo sẽ tạo được mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ sở đào tạo với nhau nhằm phá vỡ thế khép kín ở từng trường, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo, tạo điều kiện để sử dụng chung có hiệu suất cao đội ngũ cán bộ giảng dạy giỏi và thiết bị tốt.
Thứ tư, tạo điều kiện thuận lợi để nhà trường gắn liền với xã hội, bám sát các địa bàn phục vục, gắn bó với các cộng đồng dân cư và trên cơ sở đó, huy động được sự tham gia đóng góp của toàn xã hội cho ngành.
Thứ năm, tạo thuận lợi cho việc trao đổi hợp tác quốc tế nhờ có những trường đại học tương xứng về quy mô và chất lượng đào tạo so với các trường đại học của các nước trong khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung.
Sau khi xem xét kỹ những điểm mạnh và yếu của từng phương án Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức lựa chọn phương án 4 để trình Hội đồng Bộ trưởng.
Ngoài ra, ông Khuyến cũng thông tin thêm, thời điểm đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo làm rõ thêm một vài điểm về tính khả thi của phương án này.
Một là, trong phương án 4 có đưa ra khái niệm “viện đại học” (University). Đây không phải là một cơ quan quản lý trung gian mà thực chất là một đơn vị đào tạo thật sự quan trọng, được lập ra trên cơ sở hợp nhất hàng loạt trường đại học và viện nghiên cứu khoa học để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống, bảo đảm hiệu suất đào tạo cao, thích ứng với một xã hội có nền kinh tế thị trường.
Video đang HOT
Loại hình trường đa ngành này là phổ biến ở nhiều nước khác nhau trên thế giới. Riêng ở Thái Lan, trong tổng số 16 cơ sở đào tạo đại học công lập đã có 12 cơ sở được xây dựng theo mô hình viện đại học.
Viện đại học cũng được tổ chức theo cơ chế quản lý 3 cấp: viện, trường (khoa) và bộ môn. Trong mỗi viện đại học có thể có một số viện nghiên cứu khoa học. Tùy theo quy mô, các viện này có thể trực thuộc viện đại học hoặc trực thuộc trường hay khoa.
Hai là, phương án 4 có đưa ra bước đệm (3-5 năm) để chuyển dần cấu trúc của viện đại học từ hình thức liên hiệp giữa các trường đại học sang mô hình hiện đại. Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng đây là một giải pháp hết sức cần thiết nhằm:
Không gây những xáo trộn quá đột ngột về tổ chức và nhân sự ở các trường, giữ được ổn định về chính trị.
Mặc dù vậy, với cơ chế chỉ đạo của Hội đồng quản trị viện đại học, với việc tổ chức đại học đại cương đào tạo chung giai đoạn 1 cho nhiều trường thành viên, chất lượng và hiệu suất đào tạo của viện đại học chắc chắn sẽ sớm thay đổi căn bản.
Có thời gian để đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý của viện đại học – một mô hình đại học phổ biến của thế giới nhưng còn mới mẻ đối với Việt Nam.
Theo giaoduc.net.vn
Đại học ở Việt Nam: Thành lập thì dễ, giải thể thì khó
Do đó, chủ trương cho phép các trường sáp nhập được kỳ vọng tạo điều kiện hình thành nên các trường đại học mạnh, có thể bứt phá phát triển.
Mô hình ĐH quốc gia với nhiều trường ĐH thành viên nếu có cơ chế hoạt động tốt sẽ bứt phá nhanh. Trong ảnh: khuôn viên ĐH Quốc gia TP.HCM tại Q.Thủ Đức, TP.HCM - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục theo tinh thần Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học (ĐH) vừa được Quốc hội thông qua là nội dung đang được dư luận quan tâm, đặc biệt là xu thế sáp nhập các trường ĐH.
Ông Phạm Tất Thắng - phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội - trao đổi với T.uổi Trẻ:
- So với nhiều nước khác, số lượng trường ĐH nước ta hiện nay (trên 250 trường ĐH, chưa kể số trường thuộc khối công an, quân đội) lớn. Trong khi thực trạng đào tạo, quản lý trường ĐH còn có những bất cập, chất lượng đào tạo, đóng góp xã hội cũng còn hạn chế. Con số trên 200.000 sinh viên ra trường thất nghiệp cũng là điều đáng phải suy nghĩ.
Vì thế, việc đưa vào luật việc quy hoạch mạng lưới trường ĐH trong thời điểm hiện nay là cần thiết, nhằm tạo hành lang pháp lý để các trường ĐH có thể bứt phá phát triển hoặc sáp nhập một số trường ĐH tạo nên những ĐH mạnh.
"Ở Việt Nam, cho thành lập thì dễ, nhưng giải thể thì khó, hầu như chưa có trường nào bị giải thể, nên càng cần phải kiểm soát chặt chẽ việc thành lập mới."
Ông Phạm Tất Thắng - Phó Chủ Nhiệm UB Văn Hoá, Giáo Dục, Thanh Thiếu Niên Và Nhi Đồng QH
Sáp nhập phải là nhu cầu tự thân
* Nhưng việc sáp nhập các trường nhỏ, trường yếu là vấn đề rất khó xét cả ở khía cạnh tâm lý xã hội và tính phức tạp do VN có nhiều loại hình trường, trực thuộc nhiều bộ, ngành khác nhau...
- Đúng là nhiều hình thức sở hữu, nhiều cơ quan quản lý đang là một rào cản, khiến thực hiện định hướng trong luật là bài toán khó khăn. Vì thế, như tôi đã nói, đưa định hướng này vào luật là để có cơ sở pháp lý thực hiện mà trước hết là thực hiện việc quy hoạch mạng lưới.
Cần phải tính toán lại số lượng cơ sở đào tạo ở mỗi lĩnh vực, địa phương, địa bàn và theo nhu cầu nhân lực hiện tại và trong tương lai, từ đó xác định lộ trình quy hoạch mạng lưới trường ĐH như thế nào. Có thể tính toán quy hoạch theo vùng miền, theo năng lực các trường, theo lĩnh vực đào tạo gắn với nhu cầu nhân lực xã hội...
Khu ký túc xá của ĐH Quốc gia TP.HCM - Ảnh: QUANG ĐỊNH
* Trước đây từng có dự định quy hoạch mạng lưới ĐH theo chức năng đào tạo: ĐH nghiên cứu, ĐH ứng dụng và thực hành. Liệu việc quy hoạch sắp tới có nên đi theo hướng phân tầng này không?
- Việc này đã được đặt ra trong Luật giáo dục ĐH năm 2012. Mặc dù xu thế phân tầng này ở các nước khác đã làm, nhưng lại không khả thi do ở VN còn nặng tâm lý phải là ĐH nghiên cứu thì mới có vị thế, còn ĐH ứng dụng, thực hành vị thế thấp hơn, "kém sang trọng hơn". Và trường nào cũng muốn trở thành ĐH nghiên cứu mà không muốn theo hướng ứng dụng, thực hành.
Vì thế, luật sửa đổi lần này không đặt ra việc phân tầng theo hướng đó mà chỉ phân loại để xác định các ĐH trọng điểm mà Nhà nước cần tập trung đầu tư, có cơ sở để thực hiện giao tự chủ. Dĩ nhiên các trường tự chủ vẫn có thể được Nhà nước đầu tư trên cơ sở chứng minh năng lực, chương trình, mục tiêu để Nhà nước đặt hàng thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, đào tạo.
* Nhưng nếu chỉ nhằm tạo cơ sở pháp lý mà không có quy định mang tính bắt buộc những trường không đủ điều kiện đứng độc lập phải sáp nhập thì sẽ không có nhiều trường thừa nhận mình yếu và tự nguyện sáp nhập, đồng nghĩa với việc luật khó khả thi?
- Mục tiêu lớn hơn khi đặt ra vấn đề này là xây dựng các ĐH mạnh. Trong đó có thể các trường ĐH phát triển theo hướng thành lập các trường ĐH trực thuộc hoặc sáp nhập các trường khác nhau thành ĐH đa ngành.
Tuy nhiên, việc sáp nhập này sẽ không thể thực hiện kiểu cơ học mang tính hành chính mà phải xem xét về tính phù hợp và quan trọng là nhu cầu tự thân của các trường. Ví như các trường thấy có cùng mục tiêu, định hướng, thấy mô hình tổ chức hiện tại là "cái áo chật", việc sáp nhập có tương lai phát triển thì chủ động thỏa thuận với nhau và đề xuất với cơ quan quản lý. Và khi có luật rồi thì việc này sẽ thuận lợi hơn nhiều.
Năm 2017, Trường CĐ Tài chính - hải quan sáp nhập vào Trường ĐH Tài chính - marketing - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Cơ chế thoáng hơn, hệ thống sẽ mạnh hơn
* Việc sáp nhập các trường ĐH nhỏ thành ĐH, tương tự như mô hình hai ĐH quốc gia có phải là việc rút ngắn con đường để xây dựng thương hiệu ĐH, hướng tới có tên trong các bảng xếp hạng trường ĐH?
- Thực tiễn ở hai ĐH quốc gia cũng chứng minh mô hình ĐH bao gồm nhiều trường ĐH thành viên, khi có cơ chế hoạt động tốt sẽ bứt phá nhanh. Cụ thể cả hai ĐH quốc gia hiện đã có tên trong bảng xếp hạng 1.000 ĐH tốt nhất thế giới, các dự án nghiên cứu có chất lượng, giải quyết những bài toán mang tính chất liên ngành, công bố quốc tế của các ĐH nhiều hơn.
Khi tập hợp đủ nguồn lực về tài chính, chuyên môn, về con người thì các ĐH mới có thể hình thành các xu hướng nghiên cứu mới, giải các bài toán tổng quát, còn nếu đứng độc lập thì việc này sẽ khó thực hiện.
* Nhưng ở VN cũng có những ĐH vùng theo mô hình quản lý hai cấp, gồm nhiều trường thành viên không hoạt động hiệu quả. Thậm chí từng có ý kiến cho rằng cần giải tán mô hình ĐH vùng, có những trường thành viên của ĐH vùng muốn "thoát ly" vì vướng víu quá nhiều thứ không phát triển được?
- ĐH vùng cũng là mô hình quản lý hai cấp như ĐH quốc gia, nhưng còn thiếu cơ chế đặc thù về tự chủ và ưu tiên đầu tư. Thậm chí, ĐH vùng còn không được giao cơ chế cởi mở như trường ĐH độc lập đang triển khai tự chủ. Về quản lý như vậy là thiếu công bằng khiến ĐH vùng không có động lực để phát triển mà còn nảy sinh nhiều vấn đề bất ổn nội tại.
Với thực trạng hiện nay thì mô hình ĐH vùng đang tạo ra thêm một cấp quản lý mà không thực sự thúc đẩy được, có khi còn gây cản trở cho các trường ĐH thành viên phát triển. Trong việc thực hiện quy hoạch sắp tới, đây cũng là việc phải tính toán lại. Nếu duy trì mô hình này thì cần phải tạo ra cơ chế phù hợp hơn (giao quyền tự chủ và tập trung đầu tư).
Nguồn: Bộ GD&ĐT - Đồ họa: V.CƯỜNG
* Ở khối giáo dục nghề nghiệp, chủ trương sáp nhập các trường yếu để tạo nên các cơ sở đào tạo mạnh hơn đang được thực hiện quyết liệt. Nhưng một số địa phương lại vội vàng sáp nhập một cách ồ ạt, có thể gây nên hệ lụy. Điều này liệu có xảy ra đối với khối ĐH tiến hành sáp nhập theo quy hoạch sắp tới không?
- Giống như hệ thống giáo dục ĐH, số lượng các cơ sở giáo dục nghề nghiệp hiện cũng khá nhiều. Tuyển sinh ở nhiều trường còn khó khăn, chất lượng đào tạo cũng chưa cao. Vì vậy, việc tổ chức lại hệ thống - trong đó có phương án sáp nhập trường yếu, đầu tư bài bản với trường có chất lượng là việc làm cần thiết.
Song trên thực tế, việc này chưa đạt được nhiều kết quả rõ nét. Còn ở một số địa phương đã tiến hành sáp nhập thì dường như chưa thể yên tâm vì việc sáp nhập có vẻ cố gắng đạt mục tiêu giảm đầu mối cơ học mà chưa tính toán thật kỹ.
Đó cũng là bài học thực tiễn để khi thực hiện sắp xếp lại hệ thống cần nghiên cứu kỹ, thận trọng và triển khai từng bước.
Không nên thành lập mới trường công
* Theo ông, trong thời gian chờ quy hoạch, có nên tiếp tục cho phép thành lập các trường ĐH mới không?
- Theo tôi thì tạm thời không nên thành lập mới các trường công lập. Vì xét về số lượng trường ĐH, các ngành ĐH tương ứng với nhu cầu nhân lực thì hiện nay chúng ta đã khá đủ. Có lẽ không có ngành nghề nào xã hội cần nhân lực mà các trường ĐH Việt Nam chưa đào tạo. Do đó, việc thành lập mới các trường ĐH công lập là chưa cần thiết. Nên chờ sau khi quy hoạch mạng lưới mới cân nhắc tiếp.
Nguồn: Bộ GD&ĐT - Đồ họa: V.CƯỜNG
Ông Nguyễn Hoàng Hiếu (phó vụ trưởng Vụ kế hoạch - tài chính, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp): Không thể làm ồ ạt, vội vàng
Việc quy hoạch, sắp xếp lại mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp để hệ thống mạnh lên là điều tất yếu, nhưng cần được thực hiện thận trọng, khoa học, hiệu quả và có lộ trình cụ thể.
Hiện tại, cả nước có khoảng 1.900 cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Việc rà soát, sắp xếp nhằm định hướng phát triển các trường theo hướng chuẩn hóa và hiện đại, đồng thời quy hoạch theo hướng mở và linh hoạt.
Đó cũng là cách để khắc phục tình trạng dàn trải, trùng lắp về ngành đào tạo, loại bỏ những cơ sở hoạt động không hiệu quả.
Việc cần làm đầu tiên là phải xây dựng các tiêu chuẩn làm cơ sở cho quy hoạch: chuẩn các trường chất lượng cao, chuẩn các ngành, nghề đào tạo theo các cấp độ quốc tế, khu vực, quốc gia, chuẩn đầu ra... Từ đó sẽ có sự phân bổ hợp lý và hiệu quả các nguồn lực để hỗ trợ đầu tư cho các trường.
Còn lại, những trường có nhiều ngành nghề và lĩnh vực đào tạo trùng lắp với nhau có thể xem xét sáp nhập, những trường không đủ tiêu chuẩn phải kiên quyết loại bỏ theo hướng giải thể hoặc sáp nhập với trường khác.
Quan điểm của bộ là những trường cùng ngành nghề, cùng lĩnh vực có thể sắp xếp lại tổ chức và từng bước tự chủ. Những trường đang tự chủ hoặc cam kết tự chủ theo lộ trình thì có thể tiếp tục hoạt động bình thường, nhằm tránh những trường hợp làm ồ ạt, vội vàng.
NG.H. ghi
PGS.TS Nguyễn Văn Thư (hiệu trưởng Trường ĐH Giao thông vận tải TP.HCM): Phải có chủ trương từ lãnh đạo cấp cao
Với thực tế của giáo dục ĐH Việt Nam hiện nay, tôi cho rằng cần sớm thúc đẩy việc sáp nhập các trường ĐH để có một ĐH mạnh, hoạt động hiệu quả. Một thực trạng dễ dàng nhìn thấy là đang có rất nhiều trường ĐH đào tạo nhiều lĩnh vực, ngành học giống nhau.
Đơn cử như tại TP.HCM đang có hai trường ĐH giao thông vận tải của hai bộ khác nhau (Bộ GTVT và Bộ GD-ĐT) đào tạo hầu hết các ngành học giống nhau. Như vậy là chồng chéo, bất hợp lý. Trong khi nếu thực hiện sáp nhập các trường lại với nhau sẽ có nguồn lực về cơ sở vật chất cũng như con người lớn mạnh hơn nhiều.
Tuy nhiên việc sáp nhập cũng có những trở ngại nhất định vì một số trường không muốn bị sáp nhập. Họ muốn có "lãnh địa" riêng, khi sáp nhập nhiều người sẽ mất chức, ảnh hưởng quyền lợi của họ.
Đặc biệt, rất nhiều trường đang trực thuộc các bộ ngành khác nhau, lại không thống nhất được với nhau nên sẽ khó khăn khi thực hiện việc sáp nhập. Như vậy, cần phải có chủ trương từ lãnh đạo cấp cao mới có thể làm được. Nếu để các bộ tự làm việc với nhau e rằng rất khó thực hiện.
PGS.TS Nguyễn Kim Hồng (nguyên hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TP.HCM): Cần sắp xếp theo quy hoạch tổng thể cấp quốc gia
Theo tôi, việc sáp nhập, giải thể ĐH cũng như nhiều pháp nhân lĩnh vực khác nên coi là chuyện bình thường, nhất là nếu sự sáp nhập ấy mang lại lợi ích thiết thực.
Tôi nghĩ việc sắp xếp các ĐH theo một quy hoạch tổng thể cấp quốc gia để các ĐH mạnh hơn về nghiên cứu, giảng dạy cũng như cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy. Các ĐH yếu kém hơn có thể sáp nhập vào các ĐH có uy tín.
Đối với các ĐH tư, việc sáp nhập có thể do mua bán, hợp tác... để có tiềm lực cạnh tranh hơn.
TRẦN HUỲNH ghi
Theo tuoitre
Nhiều nơi sáp nhập trường nghề ồ ạt Quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp là một chủ trương lớn, nhưng vừa qua nhiều nơi sáp nhập trường nghề ồ ạt, không tính đến hệ lụy về sau. Học sinh Đồng Tháp tham dự chương trình tư vấn tuyển sinh - hướng nghiệp 2018 do báo T.uổi Trẻ tổ chức tại Trường ĐH Đồng Tháp sáng 24-3-2018...