Vị trưởng thôn bước qua bóng tối 20 năm lầm lỡ
Từ một người từng vào tù ra tội, ông được bà con tin tưởng bầu làm trưởng thôn.
Câu chuyện về ông Nguyễn Thành Hưng (làng Phù Khê Thượng, xã Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh) bước qua lầm lỗi hơn 20 năm trong tù để được dân tin yêu bầu làm trưởng thôn khiến không ít người ngạc nhiên.
Ông Nguyễn Thành Hưng hiện nay
Tướng cướp lừng danh một thuở
Tiếp chuyện với tôi, ông lật lại trang đầu cuốn tiểu thuyết đời mình từ những tháng ngày đen tối. Ông sinh năm 1953 tại làng Phù Khê Thượng, xã Phù Khê. Gia đình nghèo khó nhưng bố mẹ vẫn chắt chiu nuôi nấng ăn học đàng hoàng. Hết lớp 9, Hưng lên thị xã Từ Sơn học trung cấp sư phạm. Thế nhưng, cũng từ đây, cuộc đời giông tố của Hưng bắt đầu, với những mảng u tối.
Hồi đó, bạn học cùng lớp của Nguyễn Thành Hưng đa số là có điều kiện, còn Hưng lại là cậu bé thôn quê nên trong đầu chàng thanh niên luôn thường trực ý nghĩ là làm sao có t.iền, để được sung sướng, thoát nghèo, được ăn ngon mặc đẹp. Thế nhưng, do không được định hướng, Nguyễn Thành Hưng nhanh chóng tụ tập anh em cả trong và ngoài tỉnh thành lập nhóm ăn chơi. Và đương nhiên Hưng bỏ học, để chỉ đạo đàn em tiến hành những vụ trộm cắp. Chẳng mấy chốc, tiếng tăm của Hưng đã nổi danh trong giới giang hồ khắp vùng Kinh Bắc, thậm chí đã vượt ra khỏi địa bàn.
Thế nhưng, lưới trời lồng lộng. Năm 1973, Nguyễn Thành Hưng bị TAND quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) xử 18 tháng tù vì tội trộm cắp tài sản. Và cũng ngay sau khi mãn hạn tù, Hưng lại ngựa quen đường cũ, tập hợp những thanh niên bất hảo, lập nhóm cướp ngày càng táo tợn hơn. Và kết quả tất yếu, hai năm sau, Hưng lại bị TAND tỉnh Hà Bắc (cũ) kết án 10 năm tù vì tội trộm cắp tài sản. Con đường vào tù ra tội của Hưng cứ thế, khiến cuộc đời Hưng tưởng như bỏ đi…
Video đang HOT
Năm 1984, ông hết án. Những ngày đầu trở về, ông đã tự hứa rằng mọi tội tình với mình như vậy là đã quá đủ. Thế nhưng, ông lại sa chân vào vũng lầy tội lỗi lúc nào không hay. Chỉ chừng 1 năm sau, ông bị bắt ở Thái Nguyên. Như lần trước, ông lĩnh án kịch khung về tội trộm cắp tài sản, với 10 năm bóc lịch trong tù.
Sự hoàn lương kỳ lạ
Trở về quê hương, bao nhiêu ánh mắt dồn về phía ông, với sự cảnh giác cao độ và niềm tin đã gần như đ.ánh mất. Thế nhưng, những người thân thích, anh em, bạn bè, làng xóm cũng dần dần hiểu được mong muốn cháy bỏng được phục thiện của ông. Và họ đã dang tay đón ông với sự yêu thương, đùm bọc. Cũng từ đó, Nguyễn Thành Hưng chú tâm làm ăn và với sự thông minh vốn có, ông nhanh chóng có của ăn của để. Ông quay lại giúp đỡ làng xóm, láng giềng giúp đỡ anh em một thời lầm lỡ để trở về cuộc sống lương thiện.
Cuối năm 2004, ông trúng cử làm trưởng thôn với hơn 70% phiếu bầu. Khi ấy, ông không khỏi e ngại vì với “quá khứ đen” ngày nào, liệu rồi người dân có thực sự tin tưởng vào ông? Thế nhưng, với quyết tâm phục thiện làm lại cuộc đời, ông đã vượt qua mọi rào cản và hoàn thành tốt mọi công việc được nhân dân giao phó. Ông ngày càng được bà con nhân dân trong thôn tin yêu, nể trọng.
Công trình lớn nhất mà ông dành toàn bộ tâm huyết kể từ khi lên làm trưởng thôn là phục dựng thành công chùa Hồng Ân. Theo văn bia còn ghi lại, chùa Hồng Ân có từ thời Lê sơ. Trong kháng chiến chống Pháp, chùa từng là trụ sở của Ủy ban kháng chiến – hành chính huyện Từ Sơn. Ba năm sau Cách mạng tháng Tám, theo chủ trương của Đảng, thực hiện lệnh tiêu thổ kháng chiến, nhân dân Phù Khê Thượng đã tự nguyện phá dỡ chùa để phục vụ sứ mệnh giải phóng dân tộc. Sáu mươi năm không có chùa, trong lòng mỗi người dân Phù Khê Thượng luôn mong mỏi có một ngôi chùa để cầu an, để có chỗ dựa về mặt tâm linh. Sau nhiều ý kiến trái ngược nhau, qua 5 cuộc họp, ông đã được giao trọng trách là trưởng ban kiến thiết xây dựng chùa Hồng Ân, với 24 thành viên. Tháng 5/2005, chùa được khởi công. Ông đứng ra thuê thợ mộc, thợ nề từ nhiều vùng quê về làm, riêng phần thiết kế ông tự đảm nhận. Suốt gần hai năm trời, hầu như ngày nào ông cũng ăn ngủ ngoài công trình cùng thợ. Người ông gầy rộc đi. Đến tháng 11/2006, chùa Hồng Ân bề thế được khánh thành, với tổng kinh phí tới 30 tỷ đồng. Khỏi phải nói hết niềm vui sướng, hạnh phúc của bà con thôn Thượng, họ đã ghi nhận tấm lòng của ông, tỏ lòng nể phục người trưởng thôn giàu tâm huyết.
Đã hơn 8 năm làm trưởng thôn, ông Hưng đã được nhận nhiều giấy khen của UBND thị xã Từ Sơn vì dân vận khéo, bảo vệ an ninh Tổ quốc, phòng chống tội phạm xuất sắc. Nhưng trên hết, p.hần t.hưởng lớn nhất chính là ông có được niềm yêu của anh em, bạn bè, bà con lối xóm. Khi gặp ông, sự nỗ lực chân thành của ông đã khiến tôi thêm phần nể trọng. Và quan trọng hơn, chính ông đã cho tôi xúc cảm đặc biệt về sự đổi thay kỳ lạ của một con người với quá khứ lầm lỡ đen tối đến cùng cực.
Đau đáu với quê hương Điều mà ông Hưng luôn đau đáu là phải làm sao để bà con tin tưởng, từ đó tạo sự đoàn kết trong dân. Ông có thể tự hào là bà con luôn tin tưởng, lắng nghe người trưởng thôn công tâm, hết mình vì làng xóm. Ông cũng là người khởi xướng việc xây dựng nhà văn hóa cho thôn, tổ chức giãn dân cho 70 hộ thành công, tổ chức đổ bê tông đường làng ngõ xóm đến 95%. Phù Khê Thượng có hơn 2.100 nhân khẩu, với 90% số hộ dân sản xuất thủ công mỹ nghệ.
Theo NDT
Người c.hết 15 năm trở về kể chuyện làm “đại ca”
Cứ nhắc đến nhóm của Hiệu, các chủ bãi vàng lại run như cầy sấy. Tuy nhiên, đại ca vang danh một thời cũng có ngày trở về không nguyên vẹn.
Bỏ nhà đi biệt tích từ năm 17 t.uổi, không một lần nhắn tin về, gia đình Trần Văn Hiệu tưởng hắn đã c.hết. Một ngày, cả làng bàng hoàng khi thấy Hiệu trở về với bộ dạng đáng thương, tay cụt, mắt hỏng. Nghèo khó, túng quẫn, Hiệu vẫy vùng tìm cách tháo gỡ. Sau nhiều năm lao vào làm ăn, đến nay Trần Văn Hiệu đã thành tỷ phú từ nghề buôn bán, vận chuyển vật liệu xây dựng và vận tải hành khách.
Trùm giang hồ ngày nào đang trò chuyện với PV
Học võ để làm đại ca nhí
Trần Văn Hiệu (SN 1962, huyện Thanh Miện, Hải Dương) ngày nay nổi danh khắp mấy tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh... với cái tên Trần Cò gắn trên nhiều xe ô tô chở khách. Vậy nhưng mấy người biết được, Hiệu vốn là một tay giang hồ khét tiếng. Được biết, từ thuở nhỏ hắn đã lì lợm và đặc biệt mê võ. Hiệu thích xem phim kiếm hiệp, ngứa ngáy chân tay, đ.ánh đấm suốt ngày. Một ngày kia, m.áu "yêng hùng" nổi lên, Hiệu ăn trộm t.iền của bố mẹ đi tìm thầy học võ. Hắn tìm đến lò võ của một ông thầy ở Bắc Ninh bái sư. Ba năm trời ròng rã tuyệt nhiên hắn chẳng có tin tức về nhà. Chẳng biết, thu lượm được bao nhiêu "thành công lực", năm 17 t.uổi Hiệu ung dung về quê hương.
Có chút ít "bản lĩnh" võ nghệ, Hiệu ngày càng ngang ngạnh. Suốt ngày, hắn lang thang, tụ tập đám thanh niên đ.ánh đấm, bày trò nghịch ngợm. Từ lúc đó, hắn đã tự coi mình là "hảo hán làng", nhìn đám thanh niên choai choai cùng t.uổi bằng "nửa con mắt". Nhà nghèo, bố mẹ thấy con trai lớn không làm gì cứ nhong nhóng đi ra, đi vào, giắt lưng cồm cộm côn gậy, tính khí thì như đổ lửa càng thêm "nóng" mắt. Những lần bị mắng cứ nhiều hơn nhưng Hiệu chẳng "bắt lời". Lúc này, đã quá chán với sự tù túng, hắn bỏ nhà đi. Bố mẹ Hiệu cũng chỉ nghĩ đi đua đòi linh tinh nhưng sự đời lại đưa đẩy hắn bước chân vào tận mỏ đá đỏ Quỳ Châu - Nghệ An.
Những năm 80 của thế kỷ trước, người dân tứ xứ đổ về Quỳ Châu tìm cơ may đổi vận từ đá đỏ. Trần Văn Hiệu cũng theo dòng người tìm đến "đầu quân" cho một "đại ca" nơi rừng xanh núi đỏ. Hiệu kể lại: "Khi ấy tôi mới hiểu thế nào là rừng thiêng, nước độc. Nhiều người gục ngã, bỏ xác nơi rừng sâu không phải bị cướp thì cũng bị ngã nước. Thời kỳ đó, tôi đang sung sức nên may mắn vượt qua tất cả. Tôi cũng đã tạo ra nhiều "chiến công" cho "đại ca" và vô tình cũng tích luỹ "số má" cho bản thân mình".
Tận mắt chứng kiến sự rẻ rúng của những viên đá, mà có thời người ta bảo quý hơn vàng và có người phải đổi cả tính mạng, Hiệu cũng thấy ngán sự đời. Tuy nhiên, hoạ may lắm mới có ai đó đào được viên đá quý và giá bán cũng chỉ được vài triệu đồng. Còn những chuyện đá đỏ bán được cả trăm triệu đồng chỉ là tin đồn nơi núi thẳm. Ngao ngán với đá đỏ, Hiệu bỏ nơi đầu tiên mình dấn thân giang hồ để đi tìm vùng đất mới để thoả chí vẫy vùng.
Những cuộc chiến giành lãnh địa
Trần Văn Hiệu không nhớ nổi mình đã tham gia bao nhiêu cuộc chiến tranh giành lãnh địa, tranh giành mỏ tốt. Cuộc chiến ở những nơi này, chân lý, lẽ phải dành cho kẻ mạnh. Thắng làm vua, thua làm giặc, tất cả sự phân chia đều do kẻ mạnh hơn định đoạt. Con người ở đây giẫm đạp lên nhau mà sống. Muốn tranh được đoạn mỏ tốt thì phải chiến đấu và muốn giữ được mỏ để khai thác cũng cần đến lực lượng đủ mạnh để giao tranh. Anh Hiệu kể lại: "Ngày ấy nhóm "thất hùng" (7 anh em giang hồ) chúng tôi làm mưa làm gió nhiều bãi vàng, mỏ thiếc. Tiếng tăm của chúng tôi làm nhiều chủ bưởng khác cũng phải khiếp sợ. Sự liều lĩnh, bất chấp sống c.hết khiến băng nhóm như những con mãnh hổ tung hoành giữa rừng mà chẳng biết sợ ai. Chúng tôi tự đặt ra "luật rừng" nơi mình "đóng trại". Ngẫm lại bây giờ tôi cũng thấy ớn".
Một ngày tháng 2/1995, tiết trời vẫn còn se lạnh. Rừng sâu Thái Nguyên, nơi có bãi thiếc vẫn còn yên lắng. Sương chiều vắt trên ngọn cây, che đi ánh nắng đầu mùa yếu ớt. Sau một ngày làm việc nơi bãi thiếc, chủ chòm Hiệu xuống suối tắm như thường ngày. Một không gian yên tĩnh đến lạ thường. Bỗng... ầm! Tiếng lựu đạn vang lên, Hiệu bị thương nặng. Tai nạn đổ xuống, lúc ấy đám đàn em và thợ đãi thiếc nói là sập hầm. Tuy nhiên, nói chuyện với tôi, anh Hiệu kể thật nội tình: "Ngày ấy nhóm tôi mạnh nên nhiều bọn đố kỵ lắm. Rồi từ những mâu thuẫn do tranh chấp lãnh địa, tranh chấp mỏ, một nhóm khác đã thuê bọn nghiện dùng lựu đạn tấn công khi tôi đi tắm dưới suối. Tôi thành ra như hôm nay là từ vụ tai nạn đó".
Tai nạn đã chấm dứt những ngày tháng vẫy vùng của Trần Văn Hiệu. Anh được vợ chồng người bạn đưa về quê nơi có mỏ than Núi Hồng ở Đại Từ - Thái Nguyên cưu mang. Trần Văn Hiệu ẩn mình thật sâu. Anh quên tất cả, quên ngay chính bản thân mình. Còn ở quê nhà, sau nhiều năm không có tin tức gì của con trai, gia đình tưởng Hiệu đã c.hết m.ất x.ác nơi thâm sơn cùng cốc. Vậy là, hàng năm cứ nhớ ngày Trần Văn Hiệu ra đi, bố mẹ lại thắp hương, sửa soạn mâm cơm làm giỗ cho anh. Có đến 5 năm làm giỗ con, bao lần người mẹ thương con khóc khô nước mắt, bao lần người bố tự trách mình đã nặng lời với con...
T ự tung tự tác ở 15 bãi vàng Trong bộ áo nâu sòng, dáng ngồi thoải mái, giọng nói nhỏ nhẹ khiến tôi không thể hình dung mình đang ngồi đối diện với một tay giang hồ "có hạng" của nhiều bãi vàng những năm trước đây. Một tay đã cụt gần đến vai như để trả lại những ngày tháng làm trùm. Nắm chặt bàn tay còn ba ngón như nhớ đến thời "oanh liệt nơi rừng thẳm", anh Hiệu kể: "Rời mỏ đá đỏ Quỳ Châu, tôi tìm đến vùng Lục Yên (Yên Bái) tìm đá quý, rồi lại tìm vàng nơi núi rừng Hoàng Liên Sơn, bãi vàng Ma-nu, Khâu U (Cao Bằng), sau đó đến mỏ thiếc... Đôi chân tôi và các anh em trong nhóm đã đi không biết bao nhiêu rừng núi. Đâu có bưởng vàng, lò thiếc, mỏ đá quý là tôi tìm đến". Được biết, với 10 năm ngang dọc, Hiệu đã đi khoảng 15 điểm bãi khác nhau.
Theo NDT
Những nẻo đường phục thiện (1): Phúc ‘‘Nhiếp”, quán rượu dừng bước giang hồ Từng là những tay anh chị có số, có má trong giới giang hồ, từng xưng hùng xưng bá dọc ngang trời đất, từng có thâm niên ăn cơm tù, mặc áo sọc, nhưng sau bao năm tung hoành ngang dọc, họ đã thức tỉnh để trở về với cuộc sống lương thiện. Đoạn tuyệt với con đường cũ, những tay anh chị...