Trận tập kích thảm họa giải cứu con rể của trung tướng Mỹ
Tướng Patton đã điều động hơn 300 lính tinh nhuệ để giải cứu con rể trong trại tù binh phát xít Đức, nhưng cuộc tập kích thất bại và chỉ có 35 người trở về.
John K. Waters, mục tiêu chính của cuộc giải cứu. Ảnh: Strijdbewijs.
Thất bại thảm hại của quân đội Mỹ trong lần đụng độ đầu tiên với phát xít Đức tại đèo Kasserine, Tunisia năm 1943 đã khiến thiếu tướng Lloyd Fredendall mất chức tư lệnh Quân đoàn II Mỹ vào tay trung tướng George S. Patton.
Chức vụ mới này đã giúp tướng Patton có điều kiện thực hiện nguyện vọng riêng, đó là giải cứu trung tá John K. Waters, người con rể của ông bị quân Đức bắt làm tù binh sau trận Kasserine, theo History.
Đến tháng 3/1945, Patton là chỉ huy Tập đoàn quân số 3 của Mỹ, đảm nhiệm cánh phải của lực lượng Đồng minh vượt sông Rhine tiến đán.h nước Đức. Trại tù binhOflag XIII-B ở Hammelburg, được cho là nơi giam giữ con rể ông, nằm cách đó khoảng 80 km, sâu đằng sau chiến tuyến của quân Đức.
Ngay khi được lệnh chuyển hướng tấ.n côn.g sang phía bắc, Patton đã lên kế hoạch tập kích trại tù binh này với lý do lo ngại tù binh Mỹ bị hành quyết, bất chấp các sĩ quan thuộc quyền phản đối.
Patton quyết định thành lập một đội đặc nhiệm tinh nhuệ để tiến hành nhiệm vụ giải cứu các tù binh ở Hammelburg. Ông còn cử thiếu tá Alexander Stiller, trợ lý thân cận của mình, đi theo đội đặc nhiệm để nhận dạng Waters.
Các sĩ quan thuộc quyền của tướng Patton lên tiếng phản đối kế hoạch, cho rằng trận tập kích là quá liều lĩnh và không cần thiết. Khi biết không thể ngăn cản Patton, họ đề xuất sử dụng lực lượng cỡ trung đoàn để thực hiện trận tập kích, nhưng tướng Patton chỉ đồng ý triển khai một tiểu đoàn khoảng 300 binh sĩ cùng một số xe tăng hạng trung và hạng nhẹ.
Đội đặc nhiệm Baum (TFB) gồm 300 lính do đại úy Abraham Baum, sĩ quan dày dạn kinh nghiệm của Sư đoàn thiết giáp số 4, được thành lập để tấ.n côn.g vào Hammelburg, nhằm giải cứu khoảng 300 sĩ quan Mỹ bị giam giữ tại đây.
Trận tập kích thảm họa
Video đang HOT
Tướng George S. Patton. Ảnh: John Q.
Trại tù binh Oflag XIII-B lúc này đang trong mùa đông lạnh giá. Điều kiện thiếu thốn đến mức các tù bình thường xuyên bị bỏ đói, nhiều người không đủ sức bước đi. Waters mới bị chuyển đến trại này hồi đầu tháng 3/1945 sau hành trình dài 547 km từ một trại khác ở Ba Lan.
Tối ngày 26/3, đội đặc nhiệm TFB lên đường thực hiện nhiệm vụ giải cứu với 303 lính, 11 sĩ quan, 16 xe tăng, 28 xe bán tải chở quân, 13 xe jeep và các loại xe nhỏ khác. Họ chỉ có vài tấm bản đồ và không biết địa điểm chính xác của trại tù binh. Điều này khiến đội phải mò mẫm tìm đường trong đêm, đồng thời hỏi đường người dân địa phương.
Quân Đức nhanh chóng nhận ra sự hiện diện của đội quân này. Cho rằng đây là mũi tiên phong trong một cánh quân lớn của Mỹ thọc sâu vào lãnh thổ, quân Đức nhanh chóng triển khai lính và xe thiết giáp để săn lùng đội đặc nhiệm và thiết lập thế trận phòng thủ.
Đội đặc nhiệm của Baum đụng độ ngày càng nhiều các toán lính Đức trên đường đi. Đến chiều ngày 27/3, họ đến gần trại tù Oflag-XIII-B với chỉ khoảng một nửa quân số đủ sức chiến đấu, số còn lại đã chế.t, bị thương hoặc kiệt sức sau những trận giao tranh ác liệt với quân Đức.
Đội đặc nhiệm Mỹ vẫn tấ.n côn.g trại tù theo kế hoạch. Do nhầm tưởng tù binh Serbia mặc quân phục màu xám là lính Đức, họ đã xả đạn làm nhiều tù binh thiệ.t mạn.g. Tướng Đức chỉ huy trại tù binh nhanh chóng nhận ra việc bị áp đảo về quân số và mục đích cuộc tấ.n côn.g nên đề nghị đưa Waters ra đàm phán. Khi Waters và một số tù binh khác tiến về phía lực lượng Baum, một lính canh Đức không nắm được tình hình đã bắ.n vào mông Waters.
Baum nhận thấy không thể đưa hết số tù binh được giải cứu về lãnh thổ Đồng minh nên ưu tiên giải cứu các sĩ quan cấp cao, để các tù binh còn lại lựa chọn hành quân cùng họ hoặc tự lo liệu. Hầu hết tù nhân do quá kiệt sức nên xin được ở lại. Bản thân Waters cũng không đủ sức di chuyển và phải để các bác sĩ quân y chữa trị.
Baum dẫn đầu đội hình hành quân về khu vực an toàn trong đêm tối. Đoàn xe hiếm khi bật đèn vì lo sợ quân Đức phát hiện, các xe cũng thường xuyên phải tắt máy để giữ im lặng khi ẩn náu. Lính Đức còn sử dụng xe tăng Sherman thu được của Mỹ và cố tìm cách liên lạc bằng tiếng Anh qua radio để khiến đội đặc nhiệm bộc lộ vị trí.
Nhiên liệu cạn dần, Baum buộc phải ra lệnh cho đoàn xe dừng lại cho đến khi trời sáng để dễ định hướng di chuyển. Tuy nhiên,trong lúc quân Mỹ chờ đợi, lực lượng Đức đã bao vây xung quanh.
Rạng sáng ngày 28/3, khi đội hình hành quân chuẩn bị lên đường, tiếng sún.g vang lên từ mọi hướng. Tất cả đều thất thủ chỉ sau vài phút ngắn ngủi. Baum bị trúng đạn ở đùi và bị đưa trở lại trại tù Oflag-XIIIB cùng Waters và nhiều người khác. Tổng cộng có 32 lính Mỹ thiệ.t mạn.g trong lúc giao tranh, 247 người bị thương, mất tích hoặc bị bắt làm tù binh. Chỉ 35 người trong đội đặc nhiệm tìm được đường trở về đơn vị.
Dù trận tập kích thất bại, đội đặc nhiệm của Baum đã chọc thủng một phần phòng tuyến Đức, tạo điều kiện cho quân Mỹ tiến vào chiếm thêm lãnh thổ và đẩy nhanh đà tiến công. Ngoài ra, nhiệm vụ giải cứu này đã khiến quân Đức bị đán.h lạc hướng, cho phép Quân đoàn 3 của Patton chuyển hướng tấ.n côn.g sang phía bắc và giành nhiều thắng lợi.
Lực lượng Mỹ giải phóng nhà tù Oflag XIII-B. Ảnh: War History Online.
Do liên tục thất thủ trên chiến trường, Đức buộc phải di tản nhà tù Oflag XIII-B, bỏ lại phía sau những người không thể đi lại, trong đó có Baum và Waters. Ngày 6/4, lực lượng Mỹ đã giải phóng nhà tù Oflag XIII-B, cứu được Baum và Waters.
Đại úy Baum sau đó được tướng Patton trao Huân chương Chữ thập vì đã chỉ huy cuộc tập kích. Bất cứ hình thức khen thưởng cao hơn nào đều cần phải điều tra thành tích, trong khi tướng Patton lại muốn giữ kín chiến dịch đầy liều lĩnh này. Con rể Waters của ông sau này trở thành một viên tướng trong quân đội Mỹ.
Duy Sơn
Theo VNE
Tham vọng siêu hạm đội dở dang của Liên Xô
Liên Xô từng thông qua kế hoạch đóng các thiết giáp hạm siêu lớn để vươn ra toàn cầu, nhưng tham vọng này đã sụp đổ vì nhiều lý do.
Một phần lực lượng thiết giáp hạm của Liên Xô tại quân cảng Novorossiysk. Ảnh: Blogspot.
Sau Thế chiến II, lãnh đạo Liên Xô lên kế hoạch chế tạo siêu hạm đội thiết giáp hạm với mục đích xây dựng lực lượng hải quân mạnh để mở rộng tầm ảnh hưởng ra khỏi châu Âu và châu Á, theo National Interest.
Chuyên gia quân sự Kyle Mizokami cho rằng hải quân Liên Xô chỉ đóng vai trò thứ yếu trong Thế chiến II, xếp sau lục quân và không quân. Hồng quân Liên Xô trực tiếp tham gia các chiến dịch ác liệt trên bộ, đán.h bại phát xít Đức, trong khi không quân Liên Xô đóng vai trò là chi viện chiến trường cho bộ binh.
Trong khi đó, hải quân Liên Xô có vai trò rất hạn chế, chỉ hộ tống việc vận chuyển trang thiết bị thuê, mượn từ Mỹ và hỗ trợ các chiến dịch trên bộ, quấy rối quân Đức ở biển Baltic và Biển Đen.
Tuy nhiên, giữa năm 1945, Stalin nhận ra đối thủ lớn nhất của Liên Xô là Anh và Mỹ, hai cường quốc trên đại dương. Vì vậy, để duy trì vị thế của mình, Liên Xô cần xây dựng lực lượng hải quân đủ mạnh.
Ở thời điểm Thế chiến II kết thúc, thiết giáp hạm đã trở nên lạc hậu và bị thay thế bằng các tàu sân bay. Các nước phương Tây bắt đầu loại biên, tháo dỡ phần lớn các thiết giáp hạm của mình để tập trung chế tạo các hạm đội tàu sân bay.
Thế nhưng lãnh đạo Liên Xô Stalin lại không mặn mà với tàu sân bay mà chỉ ưa chuộng thiết giáp hạm. Trong một cuộc họp vào tháng 9/1945, ông bác bỏ đề xuất chế tạo hạm đội tàu sân bay, chỉ thị cho hải quân đóng thiết giáp hạm Sovetskaya Rossiya. Chiếc tàu này được khởi công năm 1940, mới chỉ hoàn thiện chưa tới 1% trước khi chiến tranh kết thúc.
Hải quân Liên Xô còn được lệnh đóng hai thiết giáp hạm giãn nước 75.000 tấn thuộc Đề án 24 và 7 tuần dương hạm Đề án 82 (lớp Stalingrad) có giãn nước 36.500 tấn, trang bị 9 pháo 304,8 mm. Stalin chỉ chấp thuận đóng hai tàu sân bay hạng nhẹ, quá nhỏ bé so với hạm đội tàu sân bay vượt trội của Anh và Mỹ.
Các hãng tin phương Tây cho rằng các thiết giáp hạm của Liên Xô sẽ đạt tốc độ tối đa 46-55 km/h, trang bị 9-12 pháo 406 mm và 12 pháo 457 mm, cũng như các tên lửa dẫn đường. Tuy nhiên, đây chỉ là tin đồn thất thiệt. Vào thời điểm đó, Liên Xô vẫn chưa thể trang bị tên lửa dẫn đường cho các tàu của mình.
Một thiết giáp hạm của Liên Xô sâu Thế chiến II. Ảnh: Flickriver.
Mizokami cho rằng kế hoạch của Liên Xô là một thất bại từ trong trứng nước. Họ chưa bao giờ có khả năng đóng loại tàu lớn, việc phát triển năng lực đóng tàu cũng bị trì hoãn vì chiến tranh. Ngoài ra, cuộc chiến đã tàn phá phần lớn ngành công nghiệp Liên Xô, buộc họ phải đầu tư cơ sở hạ tầng để thay thế.
Dù có nguồn lực dồi dào, Liên Xô phải dần cắt giảm kế hoạch đóng hạm đội tàu mặt nước cỡ lớn. Các thiết giáp hạm 75.000 tấn không bao giờ được đóng, chỉ có hai trong 7 tuần dương hạm được khởi công nhưng không được hoàn thiện. Năm 1953, Stalin qua đời khiến tham vọng về siêu hạm đội thiết giáp hạm của Liên Xô bị hủy bỏ.
Duy Sơn
Theo VNE
Phi công Anh 13 lần đào thoát khỏi nhà tù phát xít Đức Trong 3 năm kể từ khi b.ị bắ.n rơi, phi công William Ash đã 13 lần tìm cách trốn thoát khỏi trại tù binh, trong đó có 6 suýt lần thành công. Hồ sơ tù binh của William Ash. Ảnh: BBC. William Ash là phi công lái tiêm kích Spitfire thuộc Không quân Hoàng gia Anh. Sau khi b.ị bắ.n rơi ở Pháp...