Trận đụng độ đầu tiên của Mỹ với lực lượng thiết giáp Đức
Trải qua những sai lầm, vấp váp, hy sinh đầu tiên, tiểu đoàn diệt tăng của Mỹ cũng đã có chiến thắng quý giá trước những cỗ xe tăng Panzer của Đức.
Xe chiến đấu M6 gắn pháo diệt tăng của Mỹ trong Thế chiến 2. Ảnh: Wikimedia
Năm 1939-1940, khi những cỗ xe tăng Panzer của phát xít Đức càn quét trên chiến trường Ba Lan và Pháp với những chiến thắng như đi dạo, các chỉ huy quân đội Mỹ trở nên rất lo lắng. Trong trường hợp cuộc thế chiến lan sang nước Mỹ, quân đội cần tìm ra cách phá hủy những cỗ máy này, theo WarIsboring.
Do đó, Mỹ đã thành lập một đơn vị diệt tăng đầu tiên trong lịch sử quân sự của mình mang tên tiểu đoàn 601, theo sử gia Victor Failmezger kể lại trong cuốn Những hiệp sĩ của nước Mỹ.
Tiểu đoàn 601 của Mỹ được thành lập vào tháng 8/1941 với những trang thiết bị nghèo nàn chưa qua thử nghiệm như xe chiến đấu bộ binh M3, xe jeep M-6 lắp pháo 75 mm và 37 mm, những vũ khí không phải đối thủ của tăng Panzer.
Sau một thời gian huấn luyện cấp tốc ở North Carolina, đến tháng 12/1942, tiểu đoàn 601 gồm 111 binh sĩ được điều đến Bắc Phi, nơi đang diễn ra cuộc giao tranh giữa quân Đồng minh và quân đoàn Bắc Phi khét tiếng của thống chế Đức Erwin Rommel. Đây cũng là lần đầu tiên quân đội Mỹ tham chiến trong Thế chiến 2 chống lại phát xít Đức ở chiến trường châu Âu.
Ngay từ đầu, màn ra mắt của quân Mỹ đã không suôn sẻ. Tổn thất đầu tiên của tiểu đoàn này là Michael Syrko, trợ lý ban chỉ huy đại đội trong một cuộc không kích, theo Failmezger.
Một máy bay của Italy trong đội hình chiến đấu cơ Đức bay ngang qua đội hình của tiểu đoàn 601 đã nã đạn trúng Syrko. 10 phút sau, các đồng đội của Syrko trong cơn giận dữ đã b.ắn điên cuồng vào một chiếc máy bay trên bầu trời mà không hề biết rằng đó là chiếc Spitfire của đồng minh Anh đang đuổi theo máy bay phát xít. Bị trúng đạn, phi công Anh buộc phải nhảy dù và bị tiểu đoàn “bắt giữ”. Đây là kinh nghiệm thực chiến đầu tiên của tiểu đoàn 601.
Tiểu đoàn 601 sau đó chiến đấu trong hoảng loạn và thua liểng xiểng trong các cuộc đối đầu với quân đoàn châu Phi của Đức, thậm chí là các trận đụng độ với chính quân mình.
Tháng 1/1943, tiểu đoàn 601 đang di chuyển theo đội hình hàng dọc về hướng Tây thì một lính Mỹ bất ngờ khai hỏa khẩu s.úng máy 12,7 mm nhằm vào 4 máy bay phe Đồng minh, buộc họ phải không kích đáp trả vào đội hình tiểu đoàn. Tiếp đó, pháo của phát xít Đức nã vào đội hình hàng dọc của tiểu đoàn, khiến họ phân tán vào các khe nhỏ giữa những tàn tích La Mã. Pháo Đức chưa ngớt, pháo Mỹ bắt đầu dội vào các xe chiến đấu đang nằm im trên đường. Ngay lập tức, quân Đức ngừng b.ắn bởi họ cho rằng các xe này là của quân phát xít.
Sau những thất bại trên, tiểu đoàn 601 và các đơn vị khác của Mỹ đã rút ra được những kinh nghiệm quý giá, giúp họ giành được chiến thắng đầu tiên trước lực lượng thiết giáp của Đức tại El Guettar, Tunisia vào ngày 23/3/1943.
Video đang HOT
Diễn biến trận đ.ánh ở El Guettar, nơi tiểu đoàn 601 đụng độ 100 xe tăng Panzer Đức. Đồ họa: Osprey Map
Ở địa hình đồng bằng tại El Guettar, xe tăng Panzer Đức dàn hàng ngang di chuyển xen kẽ cùng các khẩu pháo tự hành 88 mm và xe chở bộ binh. Phát hiện hướng di chuyển của quân địch, tiểu đoàn 601 quyết định chuẩn bị trận địa đương đầu với các xe tăng Panzer. Sau khi nã một loạt đạn vào chiếc Panzer số 10 đang lao đến, tổ trinh sát rút lui theo kế hoạch để tăng cường cho đại đội A và chuẩn bị ứng phó với đợt tấn công của tăng Panzer sắp diễn ra.
Lúc 5 giờ sáng ngày 23/3/1943, khi trời vẫn còn mờ tối, quân Đức với hơn 100 tăng Panzer phát động cuộc tấn công vào vị trí của tiểu đoàn 601. Tiểu đoàn lâm vào thế bất lợi vì đối phương có lực lượng mạnh hơn hẳn, với khoảng ba xe tăng Panzer đấu với một xe diệt tăng của Mỹ. Pháo binh Đức ở dưới thung lũng bất ngờ khai hỏa và các xe tăng của Đức hiệp đồng cùng bộ binh phía sau tiến công. Pháo binh Mỹ đáp trả nhưng hầu như không gây ảnh hưởng gì ngoài việc buộc các xe tăng Panzer tản ra.
Ở cự ly ngoài tầm b.ắn của các xe diệt tăng Mỹ, đội tăng Panzer Đức chia làm hai mũi tấn công. Khoảng 30 tăng Panzer vòng sang cánh trái để tiến lên con đường hướng về thị trấn El Guettar, với mục đích chiếm thị trấn quan trọng này, cắt đứt đường rút lui của tiểu đoàn Mỹ. Tuy nhiên quân Đức không ngờ rằng bên trái con đường là vùng đất lầy lội dễ lún, khiến các xe tăng Panzer không thể di chuyển, phơi mình ra trước những xe M3 trang bị pháo diệt tăng của Mỹ.
Các khẩu pháo của Đại đội A Mỹ liên tục khai hỏa vào đội hình quân Đức ở khoảng cách hai km, khiến 8 chiếc tăng Panzer bị chặn đứng trên đường và đà tiến công bị khựng lại. Quân Đức rút lui, kéo theo 4 chiếc tăng Panzer b.ị b.ắn hỏng ở phía sau.
Ở mũi còn lại, 70 xe tăng Panzer tấn công thọc sâu chia cắt đội hình đại đội B và C trước sườn núi. Quân Đức tiến công theo 5 hàng ngang, chia thành 5 hoặc 6 nhóm xe tăng với từ 15-20 xe tăng ở mỗi hàng. Các xe tăng Panzer cùng bộ binh Đức tiến công như thể đang thực hiện một cuộc diễu binh trên bộ.
Tiểu đoàn 601 kiên nhẫn đợi xe tăng Panzer tiến đến gần trước khi khai hỏa pháo xuyên giáp. Tổ cảnh giới phía trước thông báo một nhóm xe Panzer đang tiến tới và cung cấp cho chỉ huy khoảng cách, hướng di chuyển của nhóm tăng này. Sau khi nhận được thông tin, xe diệt tăng Mỹ di chuyển l.ên đ.ỉnh đụn cát, nhanh chóng khai hỏa vào đội hình Panzer và lui xuống. Một lát sau, khi các tăng Panzer tiến lên ào ạt, các pháo thủ diệt tăng quyết định bám trụ trên đụn cát và b.ắn càng nhanh càng tốt.
Một xe tăng Panzer của Đức trong Thế chiến 2. Ảnh: Wikimedia
Các xe diệt tăng Mỹ hỗ trợ lẫn nhau chuyển sang thế phòng ngự, di chuyển nhịp nhàng giữa các vị trí, khiến pháo binh và xe tăng Đức khó b.ắn trúng họ hơn. Những người lính không trực tiếp điều khiển hỏa lực xe diệt tăng thì sử dụng các vũ khí hạng nhẹ và s.úng máy tấn công bộ binh Đức.
Kết thúc cuộc chiến, 27 trong tổng số 36 khẩu pháo của tiểu đoàn 601 bị hỏng với 72 lính thương vong, trong đó có 14 người t.hiệt m.ạng. Nhưng bù lại, tiểu đoàn 601 đã t.iêu d.iệt 37 xe tăng Panzer của phát xít Đức. “Một số người cho rằng đây là trận chiến mang tính quyết định trong chiến dịch Tunisia. Rõ ràng, đó là chiến thắng đầu tiên của Mỹ trước lực lượng thiết giáp đối phương trong Thế chiến 2″, Failmezger nhấn mạnh.
Duy Sơn
Theo VNE
Chiến dịch oanh tạc nước Mỹ bằng bom khí cầu của phát xít Nhật
Chở theo chất cháy và những khối thuốc nổ lớn, hàng trăm quả khinh khí cầu đã vượt Thái Bình Dương, phát nổ ở nhiều mục tiêu trên lục địa nước Mỹ.
Một quả bom khí cầu của Nhật bị quân đội Mỹ thu được. Ảnh: US Navy
Ngày 5/5/1945, một ngày xuân ấm áp, và cuộc Thế chiến 2 diễn ra ở một nơi nào đó rất xa cô bé 13 t.uổi người Mỹ Annie Fagen khi cô chuẩn bị đi dã ngoại cùng bạn bè trong khu rừng Oregon.
Trên đường đi, Annie dừng lại ở thị trấn nhỏ Klamath Falls vì mẹ cô muốn mua một chiếc kính mới. Hai mẹ con cô không ngờ rằng quyết định này đã cứu mạng họ. Một lúc sau, họ nghe tin có một vụ nổ lớn ở trong rừng, và đoàn dã ngoại 6 người của cô, gồm 5 t.rẻ e.m và một phụ nữ mang thai, đã c.hết trong một vụ nổ, theo Guardian.
Nhiều năm sau đó, họ mới biết được rằng thủ phạm g.iết c.hết 6 người hôm đó là một thiết bị nổ do phát xít Nhật chế tạo, được chở bằng khinh khí cầu bay hơn 8.000 km xuyên Thái Bình Dương, đáp xuống núi Gearheart, và nằm im ở đó cho đến khi các nạn nhân vô tình kích nổ chúng.
Đây chỉ là một trong số hàng trăm khinh khí cầu chở chất nổ như vậy bay xuyên đại đương và rơi xuống nhiều địa điểm dọc bờ biển phía tây nước Mỹ, từ bang Alaska đến vùng biên giới giáp Mexico, hay vào sâu trong nội địa như bang Texas, Wyoming và Michigan. Chúng mang theo các thiết bị dễ cháy và thuốc nổ có sức công phá lớn nhằm gây ra các vụ cháy rừng và gieo mầm hoảng loạn trong lòng nước Mỹ.
"Các khinh khí cầu này là hệ thống phóng vũ khí liên lục địa đầu tiên", Robert Mikesh, sử gia không quân Mỹ, cho biết.
Nhà chức trách Mỹ ra lệnh cho báo chí không đưa tin về những vụ nổ để ngăn không cho người Nhật biết rằng các vũ khí thử nghiệm của họ trên thực tế đã bay đến được nước Mỹ và gieo rắc nỗi kinh hoàng. Chiến dịch khinh khí cầu cách đây hơn 70 năm của Nhật vì thế không được thông tin rộng rãi, và ngày nay gần như bị lãng quên.
Chiến dịch này được phát xít Nhật lên kế hoạch từ năm 1944, nhằm lợi dụng những dòng khí di chuyển sang phía đông ở độ cao hơn 9 km để trả đũa các vụ không kích của Mỹ.
Các quả bom khí cầu từ Nhật vượt Thái Bình Dương và rơi xuống nhiều địa điểm ở Mỹ, Canada. Đồ họa: Guardian
Nhật Bản có rất ít lựa chọn để tấn công vào đất liền của nước Mỹ, bởi họ đã mất nhiều tàu sân bay trong các cuộc hải chiến với quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương. Năm 1942, tàu ngầm của nước này đã âm thầm tiến sát bờ biển nước Mỹ và oanh tạc các mục tiêu ở bang Oregon và California nhưng không gây ra thiệt hại đáng kể, và đến năm 1944, các cuộc tấn công kiểu này không còn khả thi.
Vì thế, Phòng nghiên cứu Kỹ thuật Quân đội Số 9 của phát xít Nhật đã tạo ra các khinh khí cầu dùng khí hydro có tên là Fu-Go, nghĩa là vũ khí mượn sức gió, để tấn công trả đũa nước Mỹ. Nhờ sử dụng các bao cát để giữ thăng bằng và một đồng hồ kiểm soát độ cao với những quả bom có được treo vòng quanh, chúng mất 30-60 giờ để bay tới bờ biển nước Mỹ.
"Những khinh khí cầu được thiết kế rất khéo léo, giúp chúng bay cao vào ban ngày và hạ thấp vào ban đêm nhờ một đồng hồ đo khí áp giúp kiểm soát trần bay", Dave Tewksbury, một thành viên khoa địa chất Đại học Hamilton, New York, người từng sử dụng phần mềm bản đồ để theo dõi những khinh khí cầu này trong một dự án của Hội địa chất Mỹ năm 2008 nói. "Cơ chế hoạt động của chúng là một chu kỳ lên xuống liên tục gắn liền với thời điểm ngày và đêm trong hành trình xuyên Thái Bình Dương".
Hồ sơ lưu trữ của Nhật Bản cho thấy có khoảng 9000 khinh khí cầu được thả đi, trong đó vài trăm chiếc được cho là đã đến Mỹ. Rất may đa phần những khối thuốc nổ trên khinh khí cầu này chỉ gây ra thiệt hại nhỏ, một phần do khí hậu mùa đông ẩm ướt đã dập tắt các ngọn lửa.
Tháng 3/1945, một khinh khí cầu loại này đã làm hỏng đường dây điện dẫn đến Hanford, Washington, một cơ sở hạt nhân khi đó đang sản xuất plutonium cho quả bom nguyên tử phá hủy thành phố Nagasaki sau này. Công việc bị gián đoạn trong một thời gian ngắn.
Những quả bom được treo xung quanh thân khí cầu, với những bao cát để giữ thăng bằng bên dưới. Ảnh: US Navy
Tuy nhiên, sự bưng bít của truyền thông Mỹ khi đó đã khiến người Nhật không hề hay biết hiệu quả của những nỗ lực trả đũa bằng khinh khí cầu này. Có vẻ như quân đội Nhật đã thất vọng với kết quả của chiến dịch và từ bỏ hoạt động này vài tháng trước khi đầu hàng quân Đồng minh vào tháng 9/1945.
Ngày nay, bảo tàng hạt Klamath và một bảo tàng khinh khí cầu ở Albuquerque vẫn trưng bày những quả bom khinh khí cầu chưa phát nổ của Nhật Bản, nhưng không nhiều người biết về chúng. "Đó là một trong những bí mật lớn nhất của chiến tranh", Marilee Mason, người phụ trách bảo tàng Albuquerque, cho hay.
Duy Sơn
Theo VNE
Triều Tiên nói bị Mỹ bao vây theo kiểu Leningrad Cơ quan quân sự tối cao Triều Tiên cáo buộc "các lực lượng thù địch" do Mỹ dẫn đầu đang bao vây nước này giống như thành phố Leningrad, Nga, từng bị trong Thế Chiến II. Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un. Ảnh: Reuters. Hãng thông tấn quốc gia Triều Tiên KCNA hôm nay dẫn lời người phát ngôn Ủy ban Quốc...