Tại sao Trung Quốc phát triển hệ thống định vị riêng
Trung Quốc mất gần 20 năm để triển khai hệ thống định vị vệ tinh Bắc Đẩu nhằm phô diễn năng lực và giảm sự phụ thuộc vào Mỹ.
Ngày 23/6, Trung Quốc phóng vệ tinh cuối cùng trong hệ thống Bắc Đẩu, hoàn tất mạng lưới được coi là đối thủ của GPS và đưa nước này vào nhóm quốc gia sở hữu hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu ( GNSS). People’s Daily mô tả hệ thống này là “tài sản của toàn thế giới và nhân loại”.
Tên lửa đẩy đưa vệ tinh Bắc Đẩu cuối cùng lên quỹ đạo hôm 23/6.
Đến nay thế giới có bốn mạng lưới GNSS đáng chú ý: GPS của Mỹ, Glonass của Nga, Galileo của Liên minh châu Âu và Bắc Đẩu của Trung Quốc. Ấn Độ và Nhật Bản cũng có hệ thống định vị vệ tinh, nhưng quy mô nhỏ hơn nhiều.
Mỹ và Liên Xô bắt đầu xây dựng mạng lưới GNSS vào giai đoạn cao điểm của Chiến tranh Lạnh. GPS được Bộ Quốc phòng Mỹ đề xuất lần đầu năm 1973, trong khi dự án Glonass bắt đầu năm 1979. Cả hai đạt khả năng vận hành đầy đủ năm 1995.
Trung Quốc bắt đầu phát triển Bắc Đẩu từ năm 1994, vệ tinh đầu tiên được đưa lên quỹ đạo sau 6 năm. Trong khi đó, vệ tinh Galileo đầu tiên được phóng vào năm 2011 và dự án này có thể sẽ đi vào hoạt động từ cuối năm nay.
Video đang HOT
Nguyên lý hoạt động của chúng khá tương đồng: Dùng 4 vệ tinh cùng lúc để tính toán khoảng cách đến một thiết bị bất kỳ, từ đó xác định vị trí chính xác của nó trên bản đồ. “Mỗi hệ thống đều gồm ít nhất 20 vệ tinh. GPS, Glonass và Bắc Đẩu được điều hành hoặc có phần quản lý của quân đội. Chỉ có Galileo là hệ thống dân sự thuần túy”, chuyên gia quân sự Song Zhongping tại Thượng Hải nhận xét.
Phần lớn mọi người đều biết đến GPS, hệ thống được dùng trong mọi ứng dụng từ định vị trên smartphone đến theo dõi hành trình của máy bay và tàu biển. Bắc Đẩu là phương án của Trung Quốc nhằm thay thế sản phẩm do Mỹ phát triển, nhưng nó sẽ cần thêm nhiều thời gian để giành chỗ đứng trên thị trường.
“Trung Quốc đang hi vọng Bắc Đẩu sẽ trở thành đối thủ tầm cỡ thế giới của GPS, nhưng hệ thống của Mỹ vẫn chiếm thị phần tuyệt đối”, Song nói.
Andrew Dempster, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kỹ thuật Không gian Australia (ACSER) thuộc Đại học New South Wales, cho rằng: “Bắc Đẩu thực sự không có gì đặc biệt. Đơn giản nó là vấn đề danh tiếng và vị thế, Trung Quốc có thể cho thấy rằng họ đang sở hữu hệ thống định vị vệ tinh riêng. Cũng giống việc lên Mặt Trăng và cắm cờ nhằm thể hiện năng lực”.
Một số chuyên gia cho rằng hiệu quả và tầm phủ sóng của những hệ thống GNSS hiện nay khiến các nước không có lý do để sở hữu mạng lưới riêng. Tuy nhiên, Suelynn Choy, Phó giáo sư ở Trường Khoa học thuộc Đại học RMIT ở Australia, nhận định những phương án thay thế như Bắc Đẩu sẽ có tác dụng khi một mạng GNSS bất ngờ ngừng hoạt động, như Galileo hồi tháng 7/2019.
“Từ góc độ dân sự, điều này rất tốt vì chúng ta sẽ không phải dựa quá nhiều vào một hệ thống đơn lẻ, vốn có nguy cơ gây hại cho nền kinh tế thế giới”, Choy nêu quan điểm.
Giới chuyên gia cũng cho rằng Trung Quốc quyết theo đuổi hệ thống GNSS riêng biệt nhằm giảm sự phụ thuộc vào Mỹ, đặc biệt là với lực lượng vũ trang. “Nếu đối phương định vị bằng mạng lưới GNSS của bạn, họ sẽ đối mặt với nguy cơ lạc hướng và đình trệ mọi hoạt động nếu bạn tắt, hoặc thậm chí chỉ cần làm sai lệch tín hiệu GNSS”, Dempster nói.
Dù vẫn có nhiều tranh luận về nguy cơ khi dùng cơ sở hạ tầng Internet của Trung Quốc, như mạng 5G của Huawei, những lo ngại tương tự không có tác dụng với GNSS. “Vệ tinh phát tín hiệu, bạn có bộ thu. Trừ khi có kênh liên lạc khác, bạn không phát tín hiệu ngược trở lại GPS hay Bắc Đẩu được”, Dempster cho hay.
Cựu sĩ quan tình báo Mỹ Kevin McCauley cho biết, quân đội Trung Quốc đã phải dựa vào GPS để định vị suốt nhiều năm. Giả sử có xung đột, Mỹ có thể vô hiệu hóa tín hiệu GPS cho Trung Quốc, trong khi quân đội Mỹ vẫn có hệ thống định vị quân sự với độ chính xác cao”, Dempster cho hay.
Trung Quốc không chỉ muốn tạo ra đối thủ cạnh tranh với GPS, mà còn có thể tận dụng Bắc Đẩu để mở rộng tầm ảnh hưởng. Pakistan, đồng minh thân cận của nước này, đã được tiếp cận mạng lưới Bắc Đẩu và đang dần tách rời khỏi GPS. Trung Quốc cũng có thể chia sẻ Bắc Đẩu với những nước tham gia sáng kiến Vành đai và Con đường.
Trung Quốc sắp có hệ thống định vị riêng
Trung Quốc đang chuẩn bị phóng vệ tinh cuối cùng lên vũ trụ để hoàn thành mạng lưới định vị toàn cầu riêng, mục tiêu loại bỏ GPS của Mỹ.
Được gọi là Beidou (Bắc Đẩu), hệ thống định vị của Trung Quốc sẽ bao gồm 30 vệ tinh dùng cho mục đích điều hướng. Theo website chính thức của Beidou, vệ tinh cuối cùng dự kiến phóng lên vào tuần trước nhưng bị hoãn do một số vấn đề kỹ thuật.
Một tên lửa mang vệ tinh của dự án Beidou sắp phóng vào vũ trụ.
Khả định vị của Beidou được đán.h giá là độ chính xác cao, với phạm vi 10 mét, cao hơn mức 30 mét của GPS. Hệ thống cũng có thể đo tốc độ từ 200 cm/giây trở lên và cung cấp thông tin về thời gian với sai số chỉ là 2 phần trăm triệu giây.
Với khoản đầu tư ước tính trị giá 10 tỷ USD, Beidou sẽ giữ an toàn cho mạng lưới liên lạc của quân đội Trung Quốc, tránh nguy cơ gián đoạn GPS trong trường hợp xung đột cực đoan.
"Hệ thống định vị Beidou thể hiện tham vọng lớn của Trung Quốc. Nó sẽ đảm bảo cho việc nước này luôn kết nối trong trường hợp có xung đột với Mỹ", một chuyên gia nói với CNBC. "Đây cũng là một phần trong nỗ lực của Bắc Kinh nhằm tăng sức ảnh hưởng công nghệ đối với thế giới".
Andrew Dempster, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu kỹ thuật vũ trụ Australia, đán.h giá Beidou có sức mạnh lớn hơn các hệ thống khác do ra đời sau. Điều này giúp chuyên gia của Trung Quốc "học hỏi" được kinh nghiệm và tinh chỉnh hệ thống tốt hơn.
Trung Quốc đã hình thành kế hoạch giảm phụ thuộc vào hệ thống định vị toàn cầu của Mỹ từ cuối những năm 1990. Năm 2000, Trung Quốc phóng ba vệ tinh đầu tiên, cung cấp các dịch vụ điều hướng nhưng hạn chế và đã bị "khai tử" năm 2012.
Năm 2012, Trung Quốc đưa vào mạng lưới Beidou thế hệ thứ hai với 10 vệ tinh, cho phép cung cấp dịch vụ định vị trên toàn châu Á. Tuy nhiên, nó cũng được sử dụng giới hạn.
Beidou thế hệ mới nhất là dự án thứ ba (Beidou-3). Sau khi hoàn thành, hệ thống sẽ phục vụ mạng lưới định vị toàn cầu thay vì giới hạn khu vực.
"Mạng lưới Beidou là biểu tượng cho tham vọng lớn của Trung Quốc về chính sách đối ngoại. Họ đang có một cái nhìn ở quy mô toàn cầu", Christopher Newman, giáo sư luật và chính sách vũ trụ tại Đại học Northumbria (Anh).
BeiDou là dịch vụ định vị toàn cầu thứ tư trên thế giới, sau GPS (hoạt động từ 1993) của Mỹ, Glonass (từ 2011) của Nga và Galileo (từ 2016) của Liên minh châu Âu (EU). Theo Tân Hoa Xã, ngoài Trung Quốc, một số quốc gia như Thái Lan và Pakistan đã sử dụng hệ thống Beidou cho các mục đích khác nhau. Hơn một nửa số quốc gia trên thế giới đang sử dụng hệ thống này.
Trung Quốc sắp hoàn thành hệ thống định vị vệ tinh Bắc Đẩu Hệ thống định vị Bắc Đẩu (Beidou) của Trung Quốc sẽ hoàn thành trong tháng này khi vệ tinh cuối cùng bay vào quỹ đạo, cạnh tranh với GPS của Mỹ. Mô hình hệ thống định vị vệ tinh Bắc Đẩu. Ảnh: Reuters. Ý tưởng phát triển Bắc Đẩu được hình thành trong những năm 1990 khi quân đội muốn giảm lệ thuộc...