Tái cơ cấu kinh tế:Thiếu toàn diện, chưa triệt để!
Quá trình thực hiện đề án tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế đã đem lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên, xét trên ba vấn đề chính là tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu đầu tư công vẫn còn nhiều điểm nghẽn….
Tại Hội thảo Đ.ánh giá quá trình tái cơ cấu kinh tế Việt Nam 2011 – 2014 do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức ngày 17/12, Ts. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM cho biết quá trình tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2011 – 2014 đã đạt được một số thành quả đáng ghi nhận như ổn định kinh tế vĩ mô, t.iền tệ được giữ vững, tăng trưởng kinh tế phục hồi, môi trường kinh doanh và đầu tư đã được cải thiện…
Nếu không đẩy cải cách nhanh lên thì những thách thức khác như sự yếu kém năng lực cạnh tranh, yếu kém của DN, yếu kém trong sản xuất nông nghiệp sẽ không khắc phục được và đã kém lại càng kém hơn.
Gánh nặng nợ công
Theo báo cáo của CIEM, mặc dù những thành công của quá trình tái cơ cấu là rất đáng khích lệ. Song tái cơ cấu đầu tư công mới chỉ dừng lại ở siết chặt kỷ luật đầu tư công chứ chưa tập trung vào các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư, tránh lãng phí đầu tư. Kỷ luật kỷ cương đầu tư công còn lỏng lẻo, mặc dù đã có những văn bản pháp luật quy định chặt chẽ, những chỉ thị liên tục của Thủ tướng Chính phủ.
Theo ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, mặc dù có kết quả tích cực về cải thiện hiệu quả đầu tư công, nhưng sau 4 năm tái cơ cấu, nợ công lại tăng mạnh, theo hướng gia tăng rủi ro khủng hoảng nợ công. Về trung hạn, rủi ro lớn nhất đối với ổn định kinh tế vĩ mô là nợ công tăng lên trên 65% GDP và ở mức không bền vững.
“Trong phân tích bền vững nợ công cho Việt Nam – năm 2014, IMF đã phân tích rằng việc Chính phủ duy trì mức thâm hụt ngân sách trong giai đoạn tới ở mức như hiện nay thì tỷ lệ nợ công/GDP sẽ tăng tới mức không bền vững”, ông Thành dẫn chứng.
Đối với tái cơ cấu DNNN, tốc độ cổ phần hóa vẫn còn chậm, chất lượng cổ phần hóa còn có nhiều vấn đề, những ưu đãi cho DNNN vẫn tiếp tục là yếu tố làm méo mó thị trường. Đáng lưu ý hơn, mặc dù quá trình diễn ra quyết liệt, song 4 năm qua, những vấn đề cốt lõi của tái cơ cấu DNNN vẫn chưa “chạm” đến.
“Hạn chế, yếu kém lớn nhất của DNNN hiện nay là cơ chế hoạt động của DNNN nói chung và thể chế quản trị DNNN nói riêng còn nhiều điểm chưa phù hợp với cơ chế thị trường”, ông Nguyễn Tú Anh, Trưởng ban Kinh tế Vĩ mô (CIEM) nhận xét.
Video đang HOT
Đặc biệt, trong số các DN mà Nhà nước nắm quyền kiểm soát, kết quả thoái vốn ngoài ngành để tập trung vào lĩnh vực kinh doanh nòng cốt vẫn còn khiêm tốn (4.460 tỷ đồng được thoái vốn khỏi lĩnh vực tài chính, bất động sản trong tổng số 16.193 tỷ đồng chính thức đầu tư vào chứng khoán, quỹ đầu tư, bảo hiểm, ngân hàng và bất động sản tính đến tháng 10/2014).
Thêm vào đó, nợ phải trả của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vẫn là gánh nặng lớn đối với nền kinh tế (tổng nợ phải trả của 781 DNNN tính đến cuối 2014 là 1,87 triệu tỷ đồng).
Trong khi đó, về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, ông Tú Anh cho biết vẫn còn những hạn chế nhất định như quá trình xử lý nợ xấu vẫn đang kéo dài. Thêm vào đó, chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay còn ở mức cao. Cơ chế xử lý nợ xấu của công tỷ quản lí tài sản (VAMC) còn thiếu minh bạch nên không thể hình thành thị trường.
Đặc biệt khi đ.ánh giá về kết quả của tái cơ cấu ngân hàng, ông Thành cho rằng kết quả tái cơ cấu hệ thống ngân hàng về ngắn hạn rủi ro lớn nhất đối với ổn định kinh tế vĩ mô là nợ và ngân hàng yếu kém chưa được xử lí.
Bên cạnh đó, so với các nước trong khu vực, những cải cách vẫn chưa đủ để tạo ra được môi trường kinh doanh thuận lợi. Các chỉ số về môi trường kinh doanh, quản trị nhà nước của Việt Nam vẫn còn rất thấp. Đặc biệt lưu ý là những vấn đề trong thể chế điều chỉnh quan hệ nội bộ các bộ máy nhà nước hầu như chưa được đụng chạm đến trong quá trình tái cơ cấu…
Thể chế và thị trường
Một trong những nguyên nhân khiến tái cơ cấu kinh tế chưa đạt được thành quả như kỳ vọng được Ts. Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện chiến lược, Bộ KH&ĐT, nhận định là do chúng ta không nhận thức đúng vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và làm cho chúng méo mó.
Ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM, cũng cho rằng thách thức lớn nhất hiện nay là đang có một khoảng cách lớn giữa thể chế tạo ra bởi các hiệp định thương mại tự do và thể chế trong nước. Do vậy, “nếu không đẩy cải cách nhanh lên thì những thách thức khác như sự yếu kém năng lực cạnh tranh, yếu kém của DN, yếu kém trong sản xuất nông nghiệp (ngành chăn nuôi) sẽ không khắc phục được và kém lại càng kém hơn”, ông Cung lo ngại.
Theo ông Cung: “Chỉ khi chúng ta thay đổi thì chúng ta mới biến những thách thức thành cơ hội. Giờ không phải là lúc kêu ca có quá nhiều điểm yếu mà chúng ta phải biến điểm yếu thành điểm mạnh, biến thách thức mà hiệp định thương mại tự do tạo ra thành cơ hội”.
Tuy nhiên, để làm được điều này, theo ông Cung, trước hết chúng ta phải tạo ra thị trường cạnh tranh công bằng và trật tự vì nó là động lực thúc đẩy phân bổ lại nguồn lợi như tài sản của Nhà nước trong DNNN, tài sản của DN tư nhân mà hiện nay đang bị kìm nén… Nếu làm được việc này, môi trường kinh doanh nói chung và năng lực cạnh tranh sẽ có những đột phá tiến bộ.
Bên cạnh đó, ông Thành cũng kiến nghị, để cải cách kinh tế hiệu quả như về điều hành chính sách tài khóa, Việt Nam phải thiết lập quy tắc cân bằng ngân sách trung hạn cho giai đoạn 5 năm, những năm tăng trưởng tốt có thặng dư, những năm cần kích cầu có thâm hụt, nhưng bình quân cả giai đoạn ngân sách phải cân bằng.
Về điều hành chính sách t.iền tệ, ông Thành cho rằng việc tín dụng tăng trưởng mạnh trong năm 2015 nhưng không đi vào các hoạt động sản xuất là một quan ngại cần phải được giải quyết.
Ông Nguyễn Đình Cung – Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lí kinh tế Trung ương Đề án tái cơ cấu cần phải hết sức cụ thể, như lĩnh vực DNNN thì phải có các cơ chế cụ thể đảm bảo đến năm 2020 phải đạt được kết quả gì. Nói tăng hiệu quả đầu tư công nhưng cụ thể là gì ở từng lĩnh vực một. Chú trọng đến phát triển đồng đều, phải đảm bảo hệ thống theo dõi đ.ánh giá tác động tái cơ cấu với bình đẳng trong xã hội. Bởi quá trình tái cơ cấu là kế hoạch và đường đi để đạt được mục tiêu cụ thể hơn. Ông Ray Mallon – Cố vấn cao cấp Dự án RCV Tái cơ cấu kinh tế giai đoạn 2016-2020 cần nhấn mạnh đến bối cảnh hội nhập quốc tế của giai đoạn này, bối cảnh hội nhập đặt Việt Nam trước thách thức lớn, nếu không tái cơ cấu mạnh mẽ, đổi mới thể chế thì Việt Nam sẽ biến cơ hội thành thách thức. Cũng như giai đoạn tới đòi hỏi chúng ta cần phải có những thay đổi về chính sách, cải cách mạnh mẽ hơn. Bà Phạm Chi Lan – Chuyên gia kinh tế Theo tôi, tái cơ cấu kinh tế giai đoạn 2016-2020 phải xác định trọng tâm là thay đổi tư duy và vai trò của Nhà nước để thị trường vận hành tốt vì trong nền kinh tế thị trường có hai bàn tay điều khiển là thị trường và Nhà nước bổ sung gắn bó với nhau. Do vậy, Nhà nước phải thay đổi thì thị trường mới vận hành tốt hơn. Đó là thay đổi tư duy, cho thị trường vận hành, đồng thời thu hẹp vai trò và phạm vi Nhà nước nhưng phải nâng cao hiệu lực của Nhà nước. Thay đổi cách thức quản lí nhà nước, bộ máy nhà nước phải cấu trúc lại chức năng vai trò của các bộ vì hiện nay các bộ thực hiện nhiều chức năng cùng một lúc, chủ sở hữu, giám sát thị trường, hoạch định chính sách nên những chức năng lại xung đột lợi ích với nhau.
Theo Thời báo kinh doanh
Gian nan bài toán xóa nợ đọng xây dựng cơ bản
Giải quyết triệt để nợ đọng xây dựng cơ bản (XDCB) ngay trong năm 2015 là một trong những mục tiêu được Chính phủ và Quốc hội đặt ra, nhằm đảm bảo an toàn nợ công và góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững. Mặc dù vậy, mục tiêu này có thể lỗi hẹn khi mới đây, theo số liệu công bố, nợ công tại các địa phương vẫn còn rất lớn, thậm chí có dấu hiệu tăng trở lại, trong đó có cả TP. Hà Nội.
Các công trình giao thông, thủy lợi đang có nợ đọng xây dựng cơ bản nhiều nhất. Ảnh: Lê Toàn
Báo cáo cập nhất của Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội mới đây cho thấy, số nợ XDCB còn lại sau khi bố trí kế hoạch vốn năm 2015 trên địa bàn Thành phố là hơn 1.500 tỷ đồng. Trong đó, có 3 dự án thuộc nhiệm vụ chi ngân sách Thành phố, huyện làm chủ đầu tư trị giá 14,9 tỷ đồng; 15 dự án thuộc nhiệm vụ chi ngân sách cấp huyện, được ngân sách Thành phố hỗ trợ có mục tiêu trị giá 46,2 tỷ đồng; còn lại là các dự án XDCB nguồn vốn tập trung cấp huyện, xã và dự án đào đắp, kiên cố hóa kênh mương thủy lợi nội đồng, xây dựng nông thôn mới hơn 1.000 tỷ đồng.
Phó giám đốc Sở Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hà Nội, ông Vũ Duy Tuấn cho rằng, nếu tính theo tỷ lệ các cấp ngân sách tại Quyết định số 16/2012/QĐ-UBND ngày 6/7/2012 thì ngân sách Thành phố chỉ có thể xem xét hỗ trợ cho cấp huyện để trả nợ hơn 300 tỷ đồng; còn lại các huyện, xã chịu trách nhiệm trả nợ hơn 740 tỷ đồng!
Với số nợ đọng trên 1.500 tỷ đồng, có thể thấy Hà Nội tiếp tục nằm trong Top những tỉnh, thành phố có số nợ đọng xây dựng cơ bản lớn nhất. Thậm chí, con số này còn có mức tăng khá lớn so với mức hơn 1.300 tỷ đồng cập nhật vào cuối năm 2014 theo Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, dù Hà Nội đã triển khai khá nhiều biện pháp nhằm giải quyết tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản.
Tình trạng nghịch lý "càng xử lý, nợ càng tăng" có vẻ như không chỉ diễn ra ở Hà Nội, mà còn tại nhiều địa phương khác trên cả nước, khi con số nợ đọng XDCB tiếp tục có xu hướng tăng, điển hình tại một số địa phương như Bắc Giang, Quảng Nam, Vĩnh Phúc, Hà Nam...
Trong báo cáo về kết quả xử lý nợ XDCB của Bộ Tài chính gửi Thủ tướng Chính phủ hồi tháng 9, chỉ tính riêng số nợ XDCB phát sinh thêm trong 2 năm 2013 và 2014 đã lên đến 10.293 tỷ đồng.
Theo luật sư Trương Thanh Đức, Chủ tịch Công ty Luật Basico, đã có sự quyết liệt xử lý nợ đọng XDCB từ Chính phủ, nhưng quá trình triển khai còn nhiều bất cập, nhiều địa phương vẫn chưa tuân thủ theo các quy định của Luật Đầu tư công. Do đó, vẫn tiếp tục phát sinh các khoản nợ xây dựng cơ bản. Toàn bộ nguồn trả nợ lại bằng con số dự tính ngân sách Nhà nước, ngân sách địa phương, nhưng sau đó lại hụt thu, hoặc phải chi bù chỗ này, chỗ nọ, dẫn đến các khoản nợ ngày một dầy lên. Chưa kể đến việc, nền kinh tế phục hồi trở lại, nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông gia tăng, thì càng dễ gia tăng nợ đọng XDCB.
TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Trung ương:
Có nhiều DN đã c.hết hoặc chờ c.hết vì không thu được món nợ XDCB. Điều này là có thật, bởi trong thời kỳ lạm phát đầu tư công trước kia, nhiều địa phương dù chưa cân đối nguồn vốn đã vội phê duyệt dự án. Các DN cứ đua nhau vay vốn ngân hàng với lãi suất cao để tham gia thầu các dự án, nhưng sau đó, do ngân sách địa phương có hạn, cộng thêm nhiều công trình vượt giá, đội vốn dẫn đến tình trạng nợ đọng kéo dài từ ngày này qua ngày khác. Tình trạng nợ nần dây dưa kéo dài cả chục năm, không ít DN chật vật hàng năm trời để được thanh toán khoản nợ.
Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cũng cho rằng, hiện tại, nợ đọng XDCB rất khó giải quyết. Tình trạng phê duyệt dự án không tính toán, không cân đối nguồn vốn đầu tư, thực hiện khối lượng công việc cao hơn nguồn vốn phê duyệt, kéo dài thời gian thực hiện vẫn chưa hẳn là dừng lại, đặc biệt, tập trung tại các công trình dự án giao thông, thủy lợi.
"Kể cả trong trường hợp vốn đã được bố trí sắp xếp, Kho bạc Nhà nước đã sẵn sàng giải ngân, nhưng trong nhiều trường hợp không giải ngân được, không thanh toán được, là do những lý do về mặt thủ tục, lý do kỷ cương kỷ luật, đặc biệt là kỷ cương kỷ luật trong vấn đề khởi công công trình, trong vấn đề làm hồ sơ thủ tục để thanh quyết toán với Nhà nước", ông Đặng Văn Thanh, Chủ tịch Hội Kế toán - Kiểm toán Việt Nam cho biết thêm.
Báo cáo của Thanh tra Chính phủ cho thấy, sai phạm phổ biến trong công tác quản lý vốn tại các địa phương chính là việc vi phạm các quy định về lập, thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh dự án. Chỉ trong 4 tháng đầu năm nay, tổng cộng có tới 2.324 dự án, công trình bị thanh tra "thổi còi" với các lỗi: thanh toán vượt khối lượng thực tế thi công, thanh toán sai so với dự toán thực tế được duyệt, ứng vốn, nhưng không thực hiện hợp đồng...
Theo đ.ánh giá của các chuyên gia, những sai phạm nêu trên là rất nghiêm trọng, nhưng vẫn chưa phản ánh hết những hạn chế trong công tác quản lý vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ tại các địa phương.
Tham gia cuộc bình chọn Khu đô thị đáng sống 2015 (Báo đầu tư Bất động sản)
Theo_Tin Nhanh Chứng Khoán
Chính phủ bảo lãnh nợ cho DNNN có đe doạ an ninh tài chính? Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Văn Nên khẳng định doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về hiệu quả dự án và bảo đảm khả năng trả nợ. Hiện nay, nợ Chính phủ bảo lãnh chiếm 19% tổng nợ công (Ảnh minh họa) Trong Báo cáo về tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh...