Nợ công của Việt Nam vẫn trong giới hạn cho phép
Các chỉ tiêu về giới hạn nợ công của Việt Nam vẫn trong giới hạn cho phép, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đào Quang Thu khẳng định như vậy tại Hội thảo “Xác định phạm vi nợ công, trần nợ công an toàn của Việt Nam giai đoạn 2014-2020″ do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức ngày 13/11, tại Hà Nội.
Theo Thứ trưởng Đào Quang Thu, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều cảnh báo về những thách thức trong vấn đề nợ công hiện nay cũng như trong những năm tới.
Ngoài ra cũng còn có các ý kiến khác nhau về trần nợ công an toàn của Việt Nam . Vì vậy, để có thêm cơ sở khoa học, đề xuất cho Chính phủ, Quốc hội trong điều hành kinh tế vĩ mô nói chung và quản lý nợ công nói riêng, Đề án “Xác định phạm vi nợ công, trần nợ công an toàn của Việt Nam giai đoạn 2014-2020″ được xây dựng với mục tiêu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nợ công, phạm vi tính toán nợ công, ngưỡng nợ và trần nợ công, kinh nghiệm quốc tế về nợ công, đ.ánh giá thực trạng nợ công và đề xuất ngưỡng nợ công và trần nợ công của Việt Nam trong giai đoạn này. Từ đó, kiến nghị một số giải pháp để hoàn thiện chính sách nợ công của Việt Nam .
Ảnh minh họa (Nguồn: Người lao động)
Theo báo cáo của Học viện Chính sách và Phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), nợ công và nguy cơ khủng hoảng nợ công đang là vấn đề kinh tế nóng bỏng của nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới. Ở Việt Nam , vấn đề nợ công và an toàn nợ công đang được Quốc hội, Chính phủ và các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Vẫn còn những ý kiến khác nhau về phạm vi xác định nợ công và mức độ an toàn của nợ công Việt Nam hiện nay.
PGS.TS Đào Văn Hùng, Giám đốc Học viện Chính sách và Phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, tại các nước giải pháp về nợ công có sự khác nhau. Do đó, Việt Nam cũng cần có những bước đi cũng như cách thức phù hợp với thể chế chính trị và kinh tế thì mới đảm bảo được hiệu quả; đặc biệt là ngăn chặn được tác dụng không mong muốn trong nợ công tới nền kinh tế.
Video đang HOT
Theo TS. Nguyễn Thạc Hoát, Trưởng khoa Tài chính T.iền tệ, Học Viện Chính sách và Phát triển, đ.ánh giá tổng quát về mức độ an toàn nợ công của Việt Nam hiện nay có mức độ rủi ro vỡ nợ thấp nhưng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro khác nên triển vọng là “không bền vững”
Báo cáo của Học viện Chính sách và Phát triển cho thấy, hiện tại không có bộ tiêu chuẩn chung về mức ngưỡng an toàn nợ công để áp dụng cho tất cả các nước. Ngân hàng Thế giới (WB) hay Quỹ T.iền tệ Quốc tế (IMF) hiện tại chỉ đưa ra một số chỉ tiêu đ.ánh giá “mức độ rủi ro của nợ nước ngoài” chứ không phải toàn bộ nợ công.
Theo kinh nghiệm quốc tế, các chỉ tiêu an toàn nợ công được xác định dựa vào những yếu tố chủ yếu như:
thực trạng chất lượng và rủi ro nợ công; ảnh hưởng kinh tế vĩ mô; hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển, hệ số tín nhiệm quốc gia…/.
Theo Thúy Hiền (TTXVN)
Việt Nam vay khoảng 77.000 tỷ đồng để đảo nợ trong năm nay
Với nhiều nguyên nhân, nợ công Việt Nam đã tăng nhanh trong những năm qua, từ 51,7% GDP năm 2010 lên 60,3% GDP vào cuối năm 2014 và dự kiến ở mức 64% GDP vào cuối năm 2015.
Việc đảo nợ được cho biết không làm tăng nợ công và phù hợp với thông lệ quốc tế
Theo số liệu được báo cáo lên Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 diễn ra ngày 29/10 vừa rồi, đến cuối năm 2013, nợ công bằng 54,2% GDP (trong đó nợ Chính phủ 42,3%, nợ Chính phủ bảo lãnh 11,1%, nợ của chính quyền địa phương 0,8%) và nợ nước ngoài của quốc gia bằng 37,3% GDP.
Dự kiến cuối năm 2014 nợ công khoảng 60,3% GDP (trong đó nợ Chính phủ 46,9%, nợ Chính phủ bảo lãnh 12,6%, nợ của chính quyền địa phương 0,8%) và nợ nước ngoài của quốc gia bằng 39,9% GDP. Như vậy, các chỉ tiêu về nợ công vẫn đang nằm trong giới hạn cho phép theo Nghị quyết của Quốc hội.
Chính phủ khẳng định, nợ công là nguồn vốn quan trọng để bổ sung cho đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Trên 98% vốn vay được sử dụng trực tiếp cho các dự án hạ tầng, phần còn lại được đưa vào ngân sách nhà nước cho chi đầu tư (1,5%) và một phần chi sự nghiệp trong các dự án vay ODA theo cam kết (0,4%).
Mục tiêu của Chính phủ là sẽ giảm dần các chỉ tiêu nợ công trong giai đoạn 2016-2020 để đến năm 2020 nợ công khoảng 60,2% GDP, nợ Chính phủ khoảng 46,6% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 46% GDP và tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước khoảng 20% (giới hạn quy định là không quá 25%). Đồng thời, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia.
Tuy nhiên, có một thực tế là nợ công thời gian qua của Việt Nam tăng rất nhanh. Nợ công đã tăng mạnh từ 51,7% GDP năm 2010 lên 60,3% GDP vào cuối năm 2014 và 64% GDP vào cuối năm 2015.
Nguyên nhân được Chính phủ lý giải do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm lại, tỷ trọng thu ngân sách thấp hơn cùng kỳ nhưng vẫn phải giảm thuế để hỗ trợ doanh nghiệp. Cụ thể, tỷ lệ huy động thuế, phí vào ngân sách nhà nước đã giảm từ 24,8% GDP bình quân giai đoạn 2006-2010 xuống còn 21% GDP giai đoạn 2011-2015.
Trong khi đó, yêu cầu chi ngân sách tăng mạnh, phải dành nguồn kinh phí lớn cho thực hiện các chính sách kích thích kinh tế, cải cách t.iền lương, bảo đảm an sinh xã hội. Cụ thể, tỷ trọng chi cho con người trong tổng chi thường xuyên tăng từ 62,2% lên 68,2%; giai đoạn 2011-2014 đã 3 lần điều chỉnh tăng lương tối thiểu và 2 lần tăng phụ cấp công vụ; chi an sinh xã hội tăng bình quân 18%/năm, cao hơn tốc độ tăng khoảng 10% của thu, chi ngân sách. Điều này khiến nguồn ngân sách nhà nước còn lại để bố trí cho trả nợ và đầu tư phát triển là rất hạn hẹp trong khi nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện đột phá chiến lược về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội là rất lớn.
Trước tình hình này, giai đoạn 2011-2015, Việt Nam phải phát hành trái phiếu Chính phủ 335.000 tỷ đồng, gấp hơn 2,5 lần giai đoạn 2006-2010 (giai đoạn 2011-2014 đã phát hành 250.000 tỷ đồng, năm 2015 theo kế hoạch phát hành thêm 85.000 tỷ đồng), đồng thời đã đẩy mạnh giải ngân vốn ODA, vay ưu đãi và bảo lãnh vay để đầu tư các dự án hạ tầng giao thông, thủy lợi, năng lượng, y tế, giáo dục, xây dựng nông thôn mới...
Mặt khác, do Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình nên tỷ trọng vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài với kỳ hạn dài, lãi suất thấp trong nợ công giảm dần nên Việt Nam chuyển sang vay trong nước. Tỷ trọng vay trong nước tăng lên, chủ yếu qua phát hành trái phiếu Chính phủ ngắn hạn (năm 2012, kỳ hạn phát hành bình quân là 2,9 năm, lãi suất bình quân 10%/năm; năm 2013 là 3,4 năm và 7,96%/năm; 10 tháng đầu năm 2014 là 4,84 năm và 6,81%/năm) dẫn đến nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ tăng nhanh trong ngắn hạn.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ khẳng định, vẫn bảo đảm trả nợ đầy đủ, không để phát sinh nợ quá hạn. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước năm 2014 ước khoảng 14,2% (theo quy định của Chiến lược nợ công là không quá 25%). Ngoài ra, còn sử dụng một phần vay mới để đảo nợ với kỳ hạn dài hơn, lãi suất thấp hơn, góp phần giảm áp lực trả nợ trong ngắn hạn và giảm chi phí vay vốn (năm 2014 vay đảo nợ khoảng 77.000 tỷ đồng). Việc đảo nợ này được Chính phủ khẳng định không làm tăng nợ công và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Theo Luật Quản lý nợ công, nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Nghị quyết số 10/2013/QH13 của Quốc hội quy định đến năm 2015 nợ công không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 50% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP.
Còn chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030 quy định nợ công đến năm 2020 không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 55% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (không kể vay về cho vay lại) không quá 25% tổng thu ngân sách nhà nước.
Bích Diệp
Theo Dantri
Đại biểu Quốc hội: “Có phải chúng ta tiêu hết t.iền của 6 năm về sau không?" Phân tích về cơ cấu tỷ lệ nợ công 65% GDP, đại biểu Nguyễn Đức Kiên đã đặt câu hỏi như vậy và nhấn mạnh yếu tố nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân sách. Sáng nay 31/10, Quốc hội tiếp tục thảo luận tại Hội trường về tình hình kinh tế - xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015. Đại biểu...