Nhà vườn độc nhất ở phố cổ
Đến nhà số 6 Đinh Liệt chưa, nhà vườn duy nhất ở phố cổ Hà Nội đấy. Mà nhà lại nằm trong con ngõ chứ không phải ngoài đường đâu” – nghe chị Trần Thị Lan (Ban quản lý phố cổ Hà Nội) giới thiệu, người nghe rất ngạc nhiên, bởi ở cái thời buổi tấc đất tấc vàng này, nhất là lại trong ngõ nhỏ phố cổ, tìm đâu ra nhà vườn mấy trăm mét vuông!
Nhà vườn xuyên phố cổ
Xuyên qua con ngõ nhỏ, nơi phía cuối con đường, mắt tôi chạm vào màu xanh từ tàng cây cao vượt qua khỏi bờ tường, cổng vào; xanh từ những dây leo mềm mại bò dưới đất. Ánh nắng vàng tươi của một buổi sáng đầu đông Hà Nội như dịu đi trước mảng màu xanh mướt mắt bao quanh khu vườn. Ngôi nhà vườn hiện ra sau những tầng lá xanh ngắt.
Ông Phạm Ngọc Giao, 71 tuổ.i – con trai thứ của cụ Phạm Thị Tề, chủ nhân ngôi nhà vườn cổ – nhiệt tình dẫn khách tham quan vườn, chỉ từng cây một và giới thiệu về lai lịch, tuổ.i đời của nó: cây si này đã 80 tuổ.i, cây móng rồng kia đã 70 năm, cây cau đây đã 60 tuổ.i đời… Bên phải từ ngoài cổng phố Đinh Liệt đi vào là cây liễu, tượng trưng cho người nữ. Bên trái là cây trúc quân tử, tượng trưng cho người nam. Hai bên là cây mộc hương. Giữa vườn cạnh tiểu đảo là cây hoa sứ champa, ngày trước là khóm hồng. Chạy dọc bờ tường là nơi bức phù điêu Chiêu Quân cống Hồ từng ngự trị, giờ đã bị một gia đình lấn chiếm phá đi để xây nên một nhà bếp mọc lên rất lạc điệu, kỳ cục trong thần thái cổ và thiên nhiên này.
“Ngày mới giải phóng gia đình tôi cho người ta ở nhờ rồi dần dần họ không chịu đi – ông Giao nói như giải thích – Chỉ riêng phần sân vườn này là 180m2, còn tổng diện tích đất nhà chúng tôi rộng 560m2.
“Điều đặc biệt là vườn nhà tôi vẫn giữ được không gian hài hòa giữa thiên nhiên và kiến trúc với tỉ lệ 1, tức vườn sân – nhà tỉ lệ là 1:1. Nhà cao bao nhiêu, rộng bao nhiêu (chiếu đứng) thì sân vườn phía trước nhà (chiếu bằng) phải tương ứng. Đây là tỉ lệ lý tưởng”, ông Giao tự hào nói.
Gần tiểu đảo giữa vườn là chiếc giếng cổ. Ngay cả những con cháu trong gia tộc họ Phạm ở căn nhà này cũng không biết giếng cổ có tự bao giờ. Chỉ biết rằng khi bố mẹ ông Giao về đây ở và từ đời chủ cũ trước đó đã có giếng cổ. Tính ra tuổ.i của nó chí ít phải 100 tuổ.i vì năm nay cụ Tề, mẹ ông Giao, đã bước sang tuổ.i 98. Giếng miệng tròn, rộng 70-80cm, sâu 3m. Nước rất mát, trong vắt, mạch đứng. Xét về phong thủy, giếng cổ như mắt ngọc của thế đất, là hồn của mảnh đất. Xưa không có nước máy, gia đình ông Giao dùng nước giếng rửa mặt, ăn uống, tắm giặt… hằng ngày.
“Bạn tôi là nhạc sĩ Vĩnh Lai từng ở nhà này và rất thích tắm bằng nước giếng cổ – ông Giao kể – Trước không có tủ lạnh, ngày hè chúng tôi lấy nước nhân trần, cam thảo, vối… đóng chai thả xuống giếng để lấy độ mát âm thay cho làm đá. Chỉ mấy tiếng đồng hồ là mát lạnh”.
Một góc khu nhà vườn nhìn từ trên cao
Nói đoạn, chủ nhà thân mật mời khách lên ban công trên gác hai của ngôi biệt thự cổ uống trà. Trên bờ tường của dãy hành lang dài ngập nắng nhìn ra khu vườn xanh, không gian yên tĩnh dường như chỉ để cho tiếng chim hót bởi ngay cả bước chân đi cũng rất nhẹ nhàng, tiếng cười cũng trở nên từ tốn, ý nhị. Những ồn ào, xô bồ của cuộc sống sôi động ngoài kia như đã rơi rớt lại ngoài đầu ngõ..
Video đang HOT
Đi qua hai cuộc chiến tranh, gia tộc họ Phạm của ngôi nhà vẫn giữ được chiếc bình gốm pháp lam thời Nguyễn (hiện được đặt cạnh bàn thờ gia tiên) và bộ bàn ghế cổ hơn 100 năm bằng gỗ núp. Trên gác ba (gác thượng), nơi cao nhất của căn biệt thự là điện thờ mẫu Liễu Hạnh. Chỉ thêm một bước chân thôi là ra khỏi cửa, đến bancông nơi có chín giếng trời. Chín luồng ánh sáng từ nắng trời xuyên thẳng xuống chín giếng trời tạo nên không gian vừa lạ lẫm, vừa huyền ảo thú vị.
“Giếng trời thu được ánh sáng của trời, lấy được âm khí mặt đất – ông Giao cho hay – Đi qua khu vực thờ là nơi âm dương giao hòa làm cho cảm giác của con người luôn biến đổi tự nhiên, làm cho tâm hồn con người khi bước vào đây trở nên thanh thoát, nhẹ bẫng”. Đặc biệt, phần mái nhà có một đỉnh là đầu rồng kép rất độc đáo, để giải thế đất không vuông vức (bị vát cạnh ở phía tây và nam).
Trước đây, căn biệt thự vốn là nhà hình ống, có trước năm 1920, được bố mẹ ông Giao mua năm 1945. Lúc đó ngôi nhà mang số 103 Hàng Bạc (sau đổi thành 115 Hàng Bạc). Ngôi nhà được sửa lại từ năm 1945 nhưng đến năm 1949 mới hoàn thành do chiến tranh nổ ra. Kiến trúc sư Phạm Khắc Hệ đã biến ngôi nhà ống đơn thuần thành biệt thự hai tầng với 16 phòng.
Ngôi nhà là sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Pháp và đình làng Việt với hành lang, cầu thang, bờ tường cao thoáng, mái nhà lợp ngói; đầu rồng cách điệu ở đỉnh mái nhà… Sau những lần vật đổi sao dời, khu nhà vườn tổng diện tích gần 600m2 nay chỉ còn gần 300m2.
Níu giữ Hà Nội xưa
“Người Tràng An không thích nghỉ ngơi khi còn có thể làm việc có ích cho con cháu, cho xã hội. Tôi là kỹ sư điện, đã nghỉ hưu nhưng vẫn làm nghề bốc thuố.c gia truyền. 40 năm nay tôi vẫn làm việc tất cả các buổi chiều, sáng làm thuố.c. Chị tôi là họa sĩ, đã 73 tuổ.i nhưng một ngày vẫn dành 4-5 tiếng vẽ. Chị cả tốt nghiệp kỹ sư hóa Trường ĐH Bách khoa có nghề sang sợi Triều Khúc. Em gái Lan Hương nghề thêu…” – ông Giao tâm sự.
Những con người trong ngôi nhà vườn cổ này như sợ nếp sống, gia phong, thần thái và tính cách của người Hà Nội sẽ mai một dần trong thời buổi quá xô bồ này.
“Người Tràng An sống, sinh hoạt, gắn kết với nhau bằng sự khiêm nhường, cần cù, tôn trọng người khác. Chúng tôi luôn nhớ lời dặn của ông bà: trong nhà có quy định không đổi là luôn coi trọng tính công bằng và tính nhẫn, ứng xử không gì bằng khiêm tốn, mềm mại như cành liễu. Ở nhà chúng tôi người lớn rất thích chăm chút con cháu. Trong đêm giao thừa khi cậu tôi còn sống, ông luôn đến thăm các con cháu. Bây giờ thì mợ tôi làm việc này. Sáng mồng 1 con cháu mới đến thăm chúc mừng. Đó là phong tục bao đời nay của gia tộc”, bà Nguyệt Nga, chị gái ông Giao, cho biết.
Chìa chiếc nhẫn vàng trên ngón tay, ông Giao bảo: “Mợ vừa đán.h tặng tôi cái nhẫn vàng này. Mợ bảo: con phải nhận đi, đứa nào mợ cũng tặng mà con thì sao lại không nhận. Mợ tôi được coi là điểm tựa về tinh thần của đại gia đình. Mợ sống rất mẫu mực, công bằng”.
Bà Nguyệt Nga nói thêm: “Gia đình tôi từ đời ông bà nội có truyền thống không phân biệt con trai – con gái, cháu dâu – cháu rể. Đến cậu mợ tôi rồi đời chúng tôi cũng vậy. Chú Giao là con trai trưởng nhưng cũng như những người con khác: chỉ được phân hai phòng. Hằng ngày chúng tôi đều vấn an mợ sớm hoặc trước khi đi làm, đi học và sau khi trở về nhà. Chúng tôi xem việc chăm sóc bố mẹ là niềm vui, hạnh phúc nhất cuộc đời. Tôi lo việc ăn uống của mợ. Chú Giao cho cụ uống vitamin E phục hồi trí nhớ và một viên chống lão hóa mắt. Cô em gái lo việc đầu tóc, quần áo. Chị cả lo quà cáp sáng…”.
Những thế hệ con cháu của họ Phạm khi lập gia đình phải ra ngoài ở riêng, không được phạm đến một tấc đất của khu vườn.
“Cậu mợ tôi có tám người con. Hiện ở đây có bảy gia đình, năm thế hệ. Khi con cháu lớn lên, chúng muốn chia nhỏ khu vườn ra để xây nhà. Chúng tôi đã trải qua nhiều cuộc họp đại gia đình căng thẳng, đấu tranh để giữ cho được sự nguyên vẹn của khu vườn. Từng cái cây, viên gạch trong vườn này đều do các thành viên trong gia đình nâng niu, bảo vệ qua hai cuộc chiến tranh. Chỉ cần trồng một cây thôi, chúng tôi cũng hỏi ý kiến, tham khảo nhau. Cho nên con cháu gia đình này không ai được phép đụng đến mảnh đất của tổ tiên để lại”.
Thế nên qua bao dâu bể của cuộc đời, khu vườn cổ kính ở số 6 Đinh Liệt vẫn rợp bóng xanh mát và ríu rít tiếng chim ca…
Theo 24h
Cả gia đình trong 3m2
5g chiều. ến giờ nấu cơm. Dù đã có bóng điện nhưng màu vàng nhức nhối của cái đèn điện nhỏ càng làm cho không gian bé tẹo dưới gầm cầu thang của một dãy nhà tập thể gần trăm năm ở ngõ 33 Hàng Vải (P.Hàng Bồ) thêm chật hẹp.
Ở ngoài kia là chiều, ánh nắng còn chưa tắt, nhưng trong đây, ở gầm cầu thang này đã là đêm. Tối kịt nếu tắt điện. Trong cái khoảng không gian chỉ hơn 3m2 đó là nơi gia đình bà Hoàng Thị Dung (52 tuổ.i) ở 18 năm nay.
Một người 1m2!
"ến ngay cả nấu nước tôi phải đun nước nhờ bên chùa thì làm gì có cái bếp cho đàng hoàng. Có 3m2 bé tẹo, mỗi người được 1m2, chưa kể đồ đạc lỉnh kỉnh" - bà Dung chép miệng bảo. Lấy nhau 18 năm, vợ chồng bà Dung chỉ có mỗi cô con gái năm nay học lớp 11 Trường THPT Nguyễn Trãi (quận Ba ình). "Chỉ vì nhà cửa chật chội quá nên vợ chồng tôi sợ, không dám sinh thêm đứa nữa. Bát cơm sẻ đôi mỗi đứa một nửa còn được, nhưng không thể nằm chồng lên nhau mà ngủ".
Bà Dung là người Hưng Yên. Chồng bà, ông Hà ình Thành (56 tuổ.i), là trai phố cổ. Bố mẹ ông có tám người con. Cả nhà mười người ở trong một không gian chỉ 16m2! Cán bộ phường Hàng Bồ thấy thương, cho mẹ ông được sử dụng gầm cầu thang của dãy nhà tập thể làm nơi để củi.
Cô gái Hưng Yên lấy chàng trai phố cổ thông qua mai mối. Sau ba đêm ngủ trong phòng tân hôn nhỏ nhưng gọn gàng, sạch sẽ, người vợ trẻ hụt hẫng nuốt nước mắt khi biết đó là căn phòng... thuê của một gia đình hàng xóm! Gầm cầu thang vốn dùng để chứa củi mới là chỗ ăn ngủ chính thức của đôi uyên ương. "Nhìn gầm cầu tối om, bẩn thỉu tôi rùng mình, tủi thân chảy nước mắt. Tôi không ngờ lấy chồng Hà Nội lại ở cái chỗ như vậy. Nhưng thân gái như hạt mưa sa, thôi thì đành nhắm mắt mà ở", bà Dung buồn buồn tủi tủi nhớ lại cảm xúc hỗn độn khi đứng trước gầm cầu thang phủ đầy bóng tối, nơi vợ chồng bà sẽ ở.
Và người vợ trẻ khi đó không thể ngờ đó là nơi gắn bó với gia đình mình 18 năm và hơn thế nữa... Ngày về nhà chồng, mẹ chồng cho ba cái bát yêu. Cô dâu chỉ mang về ba bộ quần áo. Người bạn thân của chồng cho mấy cái nồi xoong, hai đôi đũa, mấy cái bát to, bát con, thau rửa mặt... ôi vợ chồng dọn ra ăn riêng ở gầm cầu thang. "Nhà" lúc nào cũng tối mò 24/24 giờ như đêm 30. "Suốt cả năm tôi vẫn chưa quen. Ở quê rộng rãi quen rồi. Khi đó cầu thang này gỗ đã mủn, người đi trên ở dưới nghe cứ rầm rập suốt ngày đêm, ọp ẹp như muốn sập" - bà Dung kể.
Mẹ con bà Dung trong căn nhà 3m2 - Ảnh: My Lăng
ã thế, gầm cầu thang lúc nào cũng ướt lép nhép do gỗ đã cũ, xuống cấp trầm trọng. Người dân ở trên mỗi lần xách nước lại làm tung tóe rơi vãi xuống dưới. Vợ chồng trẻ lãnh đủ. Mùi ẩm mốc xộc thẳng vào mũi. "Phản chưa có, giường cũng không, vợ chồng tôi phải trải chiếu nằm dưới đất. Quần áo chẳng mấy chốc mà mục. Da người còn ẩm mốc huống chi là quần áo" - bà Dung kể.
Mấy tháng đầu ở gầm cầu thang người vợ trẻ khóc mọng mắt. Khổ nhưng cô không dám kể cho một ai trong gia đình biết. Bà Dung nhớ lại: "Khi tôi sinh con Thủy, mẹ tôi ra đây chăm cháu mới biết "nhà" nó ở là cái gầm cầu thang. Ban ngày mẹ tôi chợ búa, giặt giũ, cơm nước cho vợ chồng con gái, đêm đi ngủ nhờ nhà hàng xóm trên cầu thang. Một tháng trời như thế. Về quê, mẹ cũng giấu kín chuyện nhà tôi".
Khi con gái đầu lòng chào đời, ông Thành mới làm gấp một tấm phản vừa khít lòng gầm cầu thang để có chỗ khá hơn cho vợ con nằm. "Trong này chật chội không biết đứng đâu ru con, tôi cứ bế con đi ra ngoài ngõ rồi lại đi lên cầu thang, cứ đi hết bậc lại bế con đi xuống, được mấy vòng thì bé Thủy lăn ra ngủ", bà Dung kể. Trong ký ức tuổ.i thơ của mình, cô bé Hà Thị Thu Thủy vẫn còn nhớ những hình ảnh không thể quên thời ấu thơ: "Khi em tập đi, mẹ tập đi cho em ở ngoài ngõ vì trong này cầu thang tối quá, em sợ cứ gào lên khóc".
18 năm ngủ không màn
Từ ngày lấy nhau đến giờ, vợ chồng ông Thành chưa một lần mắc màn dù rất nhiều muỗi, nhất là thời gian đầu mới về ở. "Nhà quá chật, mắc màn lên lại tù mù, chui ra chui vào lụng bụng như cá mắc lưới. Nửa đêm muốn đi giải chui vào chui ra đụng chồng con lại mất giấc ngủ. Thôi thì đường nào cũng bất tiện", bà Dung thở dài bảo. Ông Thành góp thêm chuyện: "Mùa tháng giêng, tháng hai - mùa muỗi nhiều, muỗi cắn đỏ sưng chân nhưng gia đình tôi cũng cố chịu. Mỗi lần mưa to nước cống rãnh ngập lên gần nửa mét tràn vào nhà, các thứ bẩn thỉu trôi lềnh bềnh hôi thối không ngửi được, vẫn phải nhắm mắt mà ngủ qua quýt cho xong".
Là dân phố cổ nhưng cách sinh hoạt của ông Thành như chỉ có ở người vô gia cư: tắm công cộng, đi vệ sinh cũng công cộng. Khi bà Dung bị ốm, phải mượn cái ghế đẩu cao kê ngoài bậc cửa, nằm nhoài đầu ra hít được không khí ít nào hay ít nấy. Khi nào thấy bí quá thì sang tựa nhờ cửa nhà hàng xóm ngồi thở, thấy chủ nhà về lại trở vào.
Ban ngày cả nhà đi hết. Ông Thành chạy xe ôm. Bà Dung bán nước trà. Bé Thủy đi học. Buổi tối là lúc đông đúc nhất. Và cũng là lúc căn nhà trở nên chật chội nhất. "Ngày nào dậy tôi cũng tê hết mình mẩy - bà Dung nói - Tôi chỉ nằm đến 5g sáng là phải dậy đi ra đường vì cái phản quá chật, không cựa quậy, không trở mình được, nằm co quắp bất động. Chật chội thế nên nhà tôi không dám may thêm quần áo. May thì treo mắc vào đâu".
Mầm sáng ở trong bóng tối
Bà Dung thoáng chút mãn nguyện khi nói đến cô con gái duy nhất: "Nhà nghèo nhưng được cái nó ngoan lắm. Tôi hỏi nó có muốn uống sữa không, nó bảo: Mẹ có tiề.n không hẵng mua cho con, không thì con không uống đâu. Không bao giờ nó đòi quần áo, giày dép, đồ chơi đồ hàng, đồ ăn vặt... Tết Trung thu bố chở đi khắp Hàng Mã, con bé về cầm một bông hồng nhựa, hỏi thì nó bảo: Con đã được xem hết rồi, cái gì cũng được xem rồi, con mua bông hồng này về tặng mẹ...".
Bàn học của Thủy là... mặt phản, vốn là giường nằm khi đêm về, cũng là nơi tiếp khách, nơi ăn uống, nơi thay quần áo... Kệ sách vở của Thủy xếp ngăn nắp chạy dọc hết một bên tường. "Khi học lý thuyết thì nó để sách vở trên đầu gối, làm bài tập thì để xuống phản. Có khi nó ngồi gập người hoặc chổng mông, cứ mỏi lưng lại xoay hết kiểu này đến kiểu khác. Nhiều lần thấy thương con quá, tôi bắt nó phải kê cái ghế con mà học. Nó cứ ngồi đều như thế 11 năm nay rồi, nhìn thương con mà chảy nước mắt" - bà Dung kể.
Vậy mà 10 năm liền Thu Thủy đều là học sinh giỏi. Cô bé rất tự tin khi nói về những dự định tương lai của mình: "Hoàn cảnh gia đình là động lực để em quyết tâm học giỏi ngay từ khi mới là cô bé 6 tuổ.i. Em muốn thi đậu vào Trường H Ngoại thương, sau này đi làm để mua được căn nhà dù nhỏ mười mấy mét vuông nhưng đúng nghĩa là nhà". Cô n.ữ sin.h lớp 11 nói rất chững chạc về dự định ngày mai của mình.
Theo 24h
Nhà không đứng được giữa Thủ đô Căn hộ ở nhà số 44 Hàng Buồm ấy đặc biệt bởi những thông tin về nó: dài 2,64m, ngang 2,5m, cao 1,19m, người ở trong nhà ấy không bao giờ đứng thẳng được. Chính xác, đó là một căn buồng nằm trên gác xép trong một trong những con ngõ tối ngòm, nhỏ hẹp nhất phố cổ. Hộp diêm 6,6m2 Dẫn khách...