Nguyên tắc xử trí vết thương phần mềm chả.y má.u
Tổn thương phần mềm thường xuất hiện sau khi tiếp xúc, bị tác động va đậ.p mạnh trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra tại vùng tổn thương và có thể bị chả.y má.u.
Đối với các trường hợp chả.y má.u ngoài
Cần đi găng tay khi xử trí, trách tiếp xúc trực tiếp với má.u của nạ.n nhâ.n. Nếu không có găng tay, cần dùng vải, gạc, quần áo sạch hoặc túi nylon để cách ly, tránh tiếp xúc trực tiếp khi sơ cứu.
Nên làm sạch vết thương nếu quá bẩn. Phải cầm má.u tại chỗ càng nhanh càng tốt để hạn chế lượng má.u của nạ.n nhâ.n bị mất.
Cần theo dõi nạ.n nhâ.n và chuyển ngay đến cơ sở y tế sau khi cầm má.u.
Đối với các trường hợp chả.y má.u trong
Cần xác định nguyên nhân, hoàn cảnh bị thương tích nghi ngờ gây chả.y má.u trong. Phát hiện các dấu hiệu bất thường toàn thân của nạ.n nhâ.n. Chống sốc cho nạ.n nhâ.n và tìm mọi cách chuyển nạ.n nhâ.n đến cơ sở y tế càng nhanh càng tốt.
Video đang HOT
Việc băng bó vết thương phần mềm chả.y má.u ngoài với mục đích bảo vệ và giữ sạch vết thương, tránh ô nhiễm từ bên ngoài, tránh cọ xát, va chạm, hạn chế mọi sự đa.u đớ.n cho nạ.n nhâ.n đồng thời phải cầm má.u ngay vết thương. Nguyên tắc là dùng băng để băng kín và không bỏ sót vết thương, băng phải đủ chặt, không làm ô nhiễm vết thương do những sai sót kỹ thuật và nên băng càng sớm càng tốt.
Cần lưu ý đặt nạ.n nhâ.n ở tư thế thoải mái và thuận tiện cho việc băng bó vết thương. Nên thao tác kỹ thuật sơ cứu ở phía trước hoặc phía bên của nạ.n nhâ.n. Không được bôi thuố.c, cồn trực tiếp vào vết thương hở đang chả.y má.u. Trước khi băng nên phủ một lớp gạc vô trùng hay gạc sạch và các nút buộc cố định băng không đè lên vết thương. Sau khi băng phải kiểm tra sự lưu thông của má.u khoảng 10 phút một lần để bảo đảm má.u có thể nuôi dưỡng phần cơ thể bị tổn thương ở dưới băng.
Nếu các tổn thương phần mềm không được xử trí kịp thời và đúng kỹ thuật sẽ có nguy cơ làm cho nạ.n nhâ.n bị đau, sưng nề, hạn chế vận động, gây khó khăn trong sinh hoạt, dẫn đến hậu quả cứng khớp nếu kéo dài. Vết thương chả.y má.u nhiều nếu không được sơ cứu kịp thời có thể làm cho nạ.n nhâ.n bị choáng và t.ử von.g. Ngoài ra, nạ.n nhâ.n cũng có thể bị nhiễm khuẩn tại chỗ vết thương và toàn thân.
TTƯT.BS. Nguyễn Võ Hinh
Theo Dân trí
Đừng xe.m thườn.g trẻ bị ho khi chuyển mùa
Khi trẻ bị ho, phần lớn các trường hợp đều có thể chăm sóc tại nhà. Tuy vậy, cần biết những dấu hiệu nguy hiểm để chủ động đưa trẻ đến các cơ sở y tế kịp thời nhằm hạn chế những tình huống xấu có thể xảy ra.
Nếu trẻ bị ho được chăm sóc tại nhà, cần bảo đảm các chế độ dinh dưỡng. Đối với trẻ còn bú mẹ, nên tiếp tục cho trẻ bú, không nên ngừng.
Phải tăng độ ẩm không khí trong phòng ở, đồng thời cần phát hiện các dấu hiệu nguy hiểm để đưa đến cơ sở y tế.
Đối với trẻ dưới 5 tuổ.i, cần chú ý thêm vệ sinh mũi họng, phát hiện dấu hiệu trẻ khó thở như có nhịp thở nhanh, có triệu chứng rút lõm lồng ngực, có tiếng thở rít và tiếng thở khò khè. Nhịp thở nhanh của trẻ được biểu hiện tùy theo lứa tuổ.i:
- trẻ từ 0 đến 2 tháng tuổ.i có nhịp thở &ge 60 lần/1 phút
- trẻ từ 2 đến 12 tháng tuổ.i có nhịp thở &ge 50 lần/1 phút
- trẻ từ 1 đến 5 tuổ.i có nhịp thở &ge 40 lần trong 1 phút.
Nếu trẻ bị ho và phát hiện có một trong những dấu hiệu sau đây cần đưa trẻ đến ngay cơ sở y tế:
- Tình trạng khó thở: đối với tr.ẻ e.m dưới 5 tuổ.i có biểu hiện nhịp thở nhanh, dấu hiệu rút lõm lồng ngực, tiếng thở rít, tiếng thở khò khè đối với trẻ trên 5 tuổ.i có biểu hiện đau ngực.
- Ho ra má.u tươi hoặc đờm có má.u.
- Ho ra đờm đặc.
- Ho trên 3 ngày hoặc ho khạc đờm kéo dài trên 2 tuần.
- Sốt cao trên 39oC.
- Bị co giật.
- Ngủ li bì, khó đán.h thức.
- Không ăn uống được, trẻ bỏ bú hoặc bú ít.
- Nôn mửa nhiều.
Để phòng tránh ho cho trẻ, cần thực hiện các biện pháp vệ sinh môi trường sống sạch sẽ, nhà ở phải thoáng mát. Vệ sinh cá nhân sạch sẽ, đặc biệt là vấn đề rửa tay. Tránh để trẻ tiếp xúc với không khí bị ô nhiễm do khói xe cộ, khói thuố.c l.á và bụi bặm. Cần tiêm vaccine cho trẻ để phòng bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, cúm, sởi...
BS. Nguyễn Võ Hinh
Theo dân trí
Phương pháp mới kiểm soát ung thư cổ tử cung Tính trên toàn thế giới, mỗi năm có khoảng nửa triệu phụ nữ bị ung thư cổ tử cung (CTC) nhưng ở các nước phát triển, ung thư CTC ngày càng giảm trong 20 năm gần đây nhờ thực hành các phương pháp dự phòng (làm phết tế bào, soi cổ tử cung và tiêm vắc-xin phòng virus u sòi cho phụ nữ...