“Người Việt sĩ diện, khoe khoang, dễ chán nản khi gặp khó”
PGS Bùi Hoài Sơn đ.ánh giá, người Việt ỷ lại, dễ chán nản khi gặp khó khăn, không biết lo xa, sĩ diện, tính tổ chức kỷ luật kém,…
Tại hội thảo “Vai trò của truyền thông trong văn hoá ứng xử hiện nay” do Bộ Văn hoá, Thể thao và du lịch phối hợp cùng Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức ngày 16/3, PGS Bùi Hoài Sơn, Viện trưởng Viện Văn hoá nghệ thuật quốc gia đã chỉ ra nhiều “thói hư, tật xấu” của người Việt Nam.
“Người Việt quá tin vào may rủi”
Theo ông Sơn, người Việt quá ỉ lại vào việc được thiên nhiên ưu đãi nên sinh ra lối sống lười biếng lao động, thiếu ý thức trong khai thác tài nguyên.
“Đáng lý người Việt phải biết tìm cách làm chủ thì lại quá lệ thuộc vào trời. Trong quá trình sống hay lao động sản xuất, người Việt thường tin vào số phận, may rủi, trông chờ vào thiên nhiên, dẫn đến việc dễ chán nản, chùn bước khi gặp phải khó khăn”, ông Sơn nói.
PGS Bùi Hoài Sơn, Viện trưởng Viện Văn hoá nghệ thuật quốc gia đã chỉ ra nhiều “thói hư, tật xấu” của người Việt Nam.
Vì lối lao động sản xuất chỉ biết dựa trên kinh nghiệm về thời tiết nên người Việt hiện nay thiếu ý thức nghiên cứu khoa học. Lối sống tiểu nông còn dẫn đến sự tùy tiện, manh mún, không biết lo xa, thiếu đầu óc tính toán trong kinh doanh, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm.
Nhiều người đề cao thói quen “ăn xổi, ở thì” và những lợi ích thiết thực trước mắt nên ít chú tâm đến lợi ích chiến lược bền lâu.
Viện trưởng Viện Văn hoá nhận định, cũng vì chịu ảnh hưởng bởi truyền thống “dùi mài kinh sử” vượt qua các kỳ thi nhằm có địa vị xã hội để hưởng vinh hoa phú quý nên nhiều người Việt học hành không đến nơi đến chốn.
Theo một số cuộc điều tra xã hội học cho thấy, số người đến thư viện đọc sách, học tập, nghiên cứu vì say mê khoa học không nhiều mà họ đến chỉ để đọc sách hay học tập ôn thi hoặc hoàn thành một chứng chỉ rồi bỏ đấy.
“Do đó, khi học tập, nghiên cứu, người Việt nặng nề với giáo điều, sao chép và thuộc lòng các lý thuyết có sẵn. Lối học đó đã trói buộc những sáng kiến, kìm hãm lối tư duy phản biện, dẫn tới thiếu tự ti, không dám vượt bỏ quá khứ”, ông khẳng định.
“Người Việt hư danh, ảo tưởng, sĩ diện”
Sĩ diện là một trong những thói xấu được PGS Bùi Hoài Sơn nêu ra. Theo ông, người Việt Nam thường giấu đi cái nghèo, cái khổ (đói cho sạch, rách cho thơm). Không mấy người Việt thú thật được nỗi cực nhọc, vất vả đã từng phải chịu đựng, từ đó dẫn đến thói kiêu căng.
Video đang HOT
Truyền thống trọng danh cũng là một đặc trưng của người Việt. Một điều tra năm 1996 cho thấy, khoảng 60% công nhân Việt Nam mong muốn con cái mình trở thành trí thức, chỉ có số ít mong muốn con cái nối tiếp sự nghiệp của mình, tức trở thành công nhân.
“Song đi liền với tính trọng danh là thói háo danh, mua danh được thể hiện rõ qua nạn bằng giả, bằng thật học giả trong xã hội hiện nay”, ông Sơn nói.
PGS Bùi Hoài Sơn phát biểu tại hội thảo “Vai trò của truyền thông trong văn hoá ứng xử hiện nay” do Bộ Văn hoá, Thể thao và du lịch phối hợp cùng Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức.
Tính cục bộ, kéo bè cánh, chỉ vì lợi ích cá nhân, địa phương cục bộ khiến người Việt khó hoà nhập với nền kinh tế toàn cầu. Tình trạng níu kéo nhau, không muốn cho người khác hơn mình cùng thói quen ghen ghét, đố kỵ, dẫn đến việc “một người thì làm tốt, ba người thì làm tồi, bảy người thì làm hỏng”.
Dẫn lại kết quả Viện Nghiên cứu xã hội Mỹ về 10 đặc điểm cơ bản của người Việt Nam, ông Sơn cho biết, người Việt cần cù lao động song để thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng; mặc dù thông minh, sáng tạo nhưng chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động.
Bên cạnh đó, mặc dù khéo léo nhưng ít người cố gằng duy trì tới cùng; vừa thực tế, vừa mơ mộng nhưng lại không có ý thức nâng lên thành lý luận.
Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh cũng là một đặc điểm nổi bật của người Việt. Tuy nhiên, người Việt lại ít khi học “đến đầu đến đuôi” nên kiến thức không hệ thống, mất căn bản. Ngoài ra, việc học tập không phải là mục tiêu tự thân của mỗi người Việt Nam, bởi khi còn nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì trí đam mê.
Mặc dù người Việt có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, trường hợp khó khăn, bần hàn. Còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này rất ít xuất hiện.
Ngoài ra còn một số những đặc điểm khác của người Việt như xởi lởi hiếu khách song không bền; tiết kiệm song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ như vì sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời; thích tụ tập nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh; yêu hòa bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu chiến, hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, đ.ánh mất đại cục.
Viện trưởng Sơn cho rằng nếu không thẳng thắn thừa nhận những thói xấu trên và tìm giải pháp khắc phục sẽ tạo rào cản và sức ì nặng nề cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Thúy Nga
Theo vietnamnet
Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống và kỹ năng sống cho HSSV: Những hiệu ứng tích cực
Ngành Giáo dục đang triển khai, thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT; trong đó chú trọng hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của người học; đồng thời coi trọng giáo dục lý tưởng, nhân cách, đạo đức lối sống cho HSSV.
Về vấn đề này, ông Bùi Văn Linh - Phó Vụ trưởng Phụ trách Vụ Giáo dục Chính trị và Công tác HSSV (Bộ GD&ĐT) có những chia sẻ với Báo Giáo dục & Thời đại.
Đa dạng hình thức giáo dục
- Thời gian qua, các trường học đã chú trọng giáo dục lý tưởng, nhân cách và kỹ năng sống cho học sinh theo tinh thần Nghị quyết 29. Ông có thể cho biết một số kết quả nổi bật?
Ông Bùi Văn Linh: Từ năm 2008 đến nay, Bộ GD&ĐT đã tham mưu 2 Quyết định của TTg CP về bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống; văn hoá ứng xử cho HSSV. Đồng thời, ban hành theo thẩm quyền 4 văn bản quy phạm pháp luật, 6 văn bản chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn liên quan đến giáo dục kỹ năng sống (GDKNS) và hoạt động ngoài giờ chính khóa cho học sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo dục.
Công tác GDKNS nhận được sự đồng thuận, tham gia, hưởng ứng của cán bộ giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh và toàn xã hội, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Chất lượng giáo dục toàn diện học sinh được nâng lên, tỷ lệ học sinh khá, giỏi tăng theo từng năm và duy trì tỷ lệ chuyên cần; giảm học sinh bỏ học.
Học sinh biết ứng phó với các tình huống bạo lực trong nhà trường, biết phòng, tránh tai nạn thương tích, đuối nước... và có kiến thức cơ bản về giới tính, có kỹ năng chống lại sự cám dỗ từ tệ nạn xã hội. Nội dung chương trình GDKNS được lồng ghép vào các môn học Đạo đức, Giáo dục công dân, Văn học, Địa lý... trong giờ học chính khóa.
- Giáo dục lý tưởng, đạo đức, kỹ năng sống cho HSSV cần có sự tham gia, phối hợp của nhiều bộ, ngành và tổ chức đoàn thể. Thời gian qua, sự phối kết hợp này được triển khai thực hiện như thế nào, thưa ông?
Ông Bùi Văn Linh: Bộ GD&ĐT đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, tổ chức Đoàn thể Trung ương trong GDKNS thông qua các phong trào thi đua: "Dạy tốt, học tốt"; "Đổi mới, sáng tạo trong dạy và học"; "Xây dựng trường học thân thiện - Học sinh tích cực" của ngành Giáo dục và các phong trào "Thiếu nhi thi đua thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy"; "Khi tôi 18"; "Học sinh 3 rèn luyện"; "Sinh viên 5 tốt", Chiến dịch "Mùa hè xanh", Chương trình "Tiếp sức mùa thi"... của tổ chức Đoàn, Hội, Đội.
Đối với địa phương, 100% các Sở GD&ĐT đã xây dựng kế hoạch, chương trình giáo dục đạo đức, lối sống và KNS trong các nhà trường. Hầu hết các trường sư phạm đã ban hành văn bản chỉ đạo theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT về GDKNS cho sinh viên và được lồng ghép trong các môn học, chương trình giáo dục chính trị, tuần sinh hoạt công dân đầu khóa, các hoạt động ngoại khóa và các hoạt động Đoàn, Hội...
Sẽ tổ chức bài bản, chuyên nghiệp hơn
- Thực tế cho thấy, việc triển khai giáo dục lý tưởng, lối sống và KNS ở các trường vẫn gặp không ít khó khăn. Theo ông đâu là rào cản lớn nhất trong quá trình triển khai thực hiện?
Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục xây dựng chương trình, tài liệu thực hành GDKNS dành cho giáo viên, học sinh THCS, tiểu học để làm tài liệu tham khảo và áp dụng triển khai các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Tới đây, Bộ sẽ tiếp tục chỉ đạo biên soạn, thẩm định tài liệu GDKNS, thực hành đạo đức cho học sinh phổ thông và sinh viên đại học.
Ông Bùi Văn Linh: Bên cạnh những kết quả nổi bật nêu trên, việc triển khai giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho HSSV vẫn bộc lộ hạn chế nhất định.
Thứ nhất, nội dung GDKNS đa phần là lồng ghép, tích hợp với các môn học, chưa được xây dựng thành chương trình riêng trong chương trình phổ thông, nên việc tổ chức, thực hiện chưa thực sự mang lại hiệu quả; khó khăn trong quá trình kiểm tra, đ.ánh giá.
Thứ hai, cơ sở vật chất, thiết bị trong trường học mới chỉ đáp ứng nhu cầu giảng dạy kiến thức cho học sinh, chưa đáp ứng được hoạt động GDKNS. Các hoạt động chủ yếu tổ chức trong phòng học, hội trường, hoạt động tổ chức ở không gian ngoài lớp học, dưới dạng trải nghiệm ở các cơ sở thực tế còn ít. Theo số liệu báo cáo, mới có 70% sinh viên tham gia GDKNS.
Thứ ba, công tác đào tạo, bồi dưỡng tập huấn cho đội ngũ cán bộ, giáo viên dạy KNS gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Hằng năm, mới có khoảng trên 85% giáo viên trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông được tham gia tập huấn.
Thứ tư, nguồn lực kinh phí dành cho GDKNS còn hạn chế. Nhiều trường không có nguồn kinh phí riêng để triển khai hoạt động GDKNS cho HSSV nên các hoạt động chưa chuyên sâu, quy mô hạn chế.
Thứ năm, tài liệu, học liệu, các phần mềm chuyên nghiệp và phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho GDKNS, chưa đa dạng, phong phú. Thứ sáu, cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương chưa quan tâm đúng mức về GDKNS.
- Thời gian tới, Bộ GD&ĐT sẽ có giải pháp gì để việc triển khai giáo dục lý tưởng, KNS đạt được hiệu quả cao nhất?
Ông Bùi Văn Linh: Tới đây Bộ GD&ĐT sẽ rà soát, ban hành quy định, hướng dẫn triển khai công tác GDKNS trong toàn ngành để phù hợp với tình hình thực tiễn. Công tác GDKNS sẽ được tổ chức bài bản, chuyên nghiệp hơn và như là một hợp phần quan trọng trong tổng thể Chương trình giáo dục phổ thông mới.
Bộ sẽ tích cực chỉ đạo các đơn vị liên quan biên soạn và thẩm định bổ sung hệ thống các chương trình bồi dưỡng, tài liệu giáo dục, học liệu, phần mềm GDKNS phục vụ cho công tác GDKNS.
Đồng thời tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, nhà giáo, nhân viên trực tiếp tổ chức thực hiện. Cụ thể hóa nội dung GDKNS trong thời lượng hoạt động trải nghiệm được bố trí trải dài trong 12 năm học giáo dục phổ thông.
Cùng với đó, đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt ngoại khóa, sinh hoạt dưới cờ, hoạt động Đoàn - Hội - Đội và hoạt động của các câu lạc bộ của HSSV. Ngoài ra, chú trọng lồng ghép nội dung GDKNS trong hoạt động của tổ tư vấn tâm lý cho học sinh trong các trường phổ thông. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức, triển khai công tác GDKNS cho HSSV.
- Xin cảm ơn ông!
Hải Minh (Thực hiện)
Theo giaoducthoidai
Giải mã sức hút của trường THPT Trần Nguyên Hãn - Hải Phòng Là một trong 40 trường THPT công lập của Hải Phòng, Trường THPT Trần Nguyên Hãn thuộc quận Lê Chân có trên 1.400 học sinh không chỉ nổi bật về thành tích dạy và học, còn gây sự chú ý trong cách rèn người. Từ lời xin lỗi trên kính xe ô tô Khi câu chuyện cậu học sinh đi xe đạp điện...