Lợi và hại của truyền dịch
Khi truyền dịch, với bất cứ dịch truyền nào đều có thể gây ra các tai biến trầm trọng.
Thời gian qua, có rất nhiều trường hợp bị biến chứng do tự ý truyền dịch hoặc lạm dụng việc truyền dịch. Vậy cần đán.h giá như thế nào về vấn đề này?
Cần quan niệm đúng
Có một quan niệm khá phổ biến cho rằng dùng thuố.c tiêm tốt hơn thuố.c uống. Do đó, khi đến phòng khám, một số bệnh nhân cứ năn nỉ thầy thuố.c cho dạng thuố.c tiêm. Đặc biệt có sự hiểu sai về tác dụng của dạng thuố.c tiêm truyền tĩnh mạch nhỏ giọt, gọi tắt là “truyền dịch” mà một số người khi khám chữa bệnh cứ nằng nặc đòi truyền cho bằng được; thậm chí có sự lạm dụng đến độ có người không bệnh tật gì chỉ thấy mệt một chút nhưng muốn cho khỏe hơn cứ nài nỉ thầy thuố.c xin vô “nước biển”, vô “đạm” hay vô “mỡ”.
“Nước biển” là từ mà một số bà con ta quen dùng để gọi chung các loại dịch truyền, còn “đạm” là dịch truyền chứa chất bổ dưỡng là các axít amin và “mỡ” là dịch truyền chứa chất béo cung cấp năng lượng. Cần nhấn mạnh rằng truyền dịch, tức vô mấy thứ dịch truyền vừa kể, là rất quý khi hữu sự nhưng không phải luôn là phương cách tốt nhất để chữa bệnh hoặc để bổ dưỡng, tăng cường sức khỏe.
Việc truyền dịch phải được chính thầy thuố.c chỉ định và theo dõi. Trong ảnh: Bệnh nhân được truyền dịch tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định. Ảnh: Tấn Thạnh
Truyền dịch như thế nào?
Video đang HOT
Chúng ta cần lưu ý dịch truyền có nhiều loại tùy theo tác dụng, có thể chia làm 4 loại như sau:
- Dịch truyền cung cấp nước, các chất điện giải cho cơ thể: Dùng trong trường hợp cơ thể bị mất nước, mất chất điện giải. Dung dịch loại này có dung dịch “ngọt” chứa đường glucose, dung dịch “mặn” chứa muối natri clorid hoặc dung dịch chứa nhiều chất điện giải có tên Ringer Lactat. Từ “nước biển” ban đầu được dùng để chỉ dung dịch mặn chứa muối natri clorid giống như nước biển nhưng về sau, bà con ta dùng từ nước biển để gọi tất cả dịch truyền khác.
- Dung dịch tái lập cân bằng kiềm toan trong cơ thể: Dùng trong trường hợp cơ thể bị bệnh hoặc thừa toan (tức dư chất axít hay còn gọi “toan huyết”) hoặc thừa kiềm (tức dư chất base). Truyền dịch loại này sẽ có tác dụng trung hòa sự thừa toan hay thừa kiềm, như khi người bệnh bị toan huyết, bác sĩ chỉ định tiêm truyền dung dịch kiềm là natri bicarbonat.
- Dịch truyền cung cấp năng lượng và chất dinh dưỡng cho cơ thể: Dùng trong trường hợp bệnh nhân bị bệnh không thể ăn qua đường tiêm tĩnh mạch, đây là loại dịch truyền hay bị lạm dụng. Dịch truyền loại này cung cấp các axít amin thiết yếu (là chất dinh dưỡng cơ bản lấy từ chất đạm), các vitamin và chất khoáng, một số chất béo (như dầu đậu nành tinh lọc nhằm cung cấp năng lượng).
- Dịch truyền thay thế má.u: Dùng trong trường hợp người bệnh bị mất má.u. Dịch truyền loại này là các dung dịch keo chứa các chất có phần tử lớn như dextran có tác dụng tái lập khối lượng chất lỏng trong má.u.
Ngoài 4 loại dịch truyền kể trên, người ta cần dùng dịch truyền có chứa thuố.c như kháng sinh để tiêm truyền trong trường hợp bị nhiễm khuẩn nặng. Bị nhiễm khuẩn nặng nếu dùng kháng sinh dạng uống sẽ không có hiệu quả.
Truyền dịch tùy tiện – Lợi bất cập hại
Rõ ràng, với những tác dụng dùng trong điều trị, dịch truyền là dạng thuố.c rất quý, rất cần thiết trong trường hợp bệnh nặng cần được cấp cứu (nhiều khi được truyền dịch mới cứu sống người bệnh) hoặc trong trường hợp người bệnh không thể uống thuố.c. Tuy nhiên, do có nhiều loại dịch truyền nên dùng loại dịch truyền nào sẽ tùy từng ca bệnh cụ thể với liều lượng được tính toán cho từng người, có sự theo dõi của thầy thuố.c chứ không phải loại nào cũng truyền được và truyền với bất cứ liều lượng nào.
Khi truyền dịch, với bất cứ dịch truyền nào, đều có thể có các tai biến rất trầm trọng xảy ra. Trước hết là nguy cơ nhiễ.m trùn.g, xuất phát từ nơi đưa thuố.c vào cơ thể. Các bệnh nhiễm như HIV/AIDS, viêm gan siêu vi B, C… đều có thể lây nhiễm qua đường tiêm chích, đặc biệt qua truyền dịch, nếu việc truyền dịch bừa bãi không đúng quy cách, không được vô trùng. Thứ đến, do truyền dịch đưa vào cơ thể một số lượng nước lớn, các chất điện giải, chất dinh dưỡng nên có thể gây rối loạn về chuyển hóa hay các hiện tượng phù ở tim, thận… Đặc biệt, dịch truyền có thể gây phản ứng toàn thân khi cơ thể không “chịu” như hiện tượng sốt run hoặc gâ.y số.c dịch truyền rất nguy hiểm. Chính vì vậy, khi thầy thuố.c chỉ định cho dùng dịch truyền là đã có sự cân nhắc rất kỹ, xét thấy đó là việc rất cần thiết và khi truyền dịch, thầy thuố.c phải theo dõi chặt chẽ để trong trường hợp tai biến xảy ra sẽ có biện pháp xử lý kịp thời.
Theo TTVN
Những thức ăn người bị viêm gan B nên tránh
Gan là cơ quan có chức năng chính để xử lý và đào thải chất độc cho cơ thể, vì vậy bệnh nhân bị viêm gan B cần có chế độ ăn hợp lý, tránh gây độc hại cho gan.
Ảnh minh họa: Internet
Người bệnh gan cần giảm các chất béo, kiêng ăn các món rán, bơ mỡ động vật, thực phẩm có chứa nhiều cholesterol như nội tạng động vật. Nên dùng dầu thực vật, dầu đậu nành, dầu mè. Nếu ăn nhiều chất béo cùng với giảm lượng đạm và bột đường làm bệnh nhân dễ mắc bệnh béo phì dẫn đến các bệnh tim mạch, tăng huyết áp, tiểu đường, nhiễm mỡ gan làm cho gan dã bị viêm có nguy cơ trở thành xơ gan.
Người bệnh viêm gan B cần dùng các thức ăn dễ tiêu như rau đậu, trái cây. Ăn nhiều ngũ cốc, hoa quả, rau có nhiều chất xơ (chất xơ cũng có tác dụng khử độc).
Sữa, cá, thịt nạc, cũng không nên ăn nhiều vì thịt là loại thức ăn khó tiêu đối với người đau gan, rất hạn chế ăn các chất dầu mỡ, nướng, rán, xào, đồ ăn nhanh hay các món chế biến nhiều dầu mỡ. Không ăn các chất cay nóng như ớt, tiêu, tuyệt đối kiêng các chất kích thích như bia, rượu, thuố.c l.á.
Tuy nhiên trong lòng đỏ trứng gà và đậu mè, các loại cá chứa nhiều acid béo, omega 3 rất cần cho người bị viêm gan mạn tính kể cả viêm gan siêu vi A, B,C vì làm chậm quá trình ung thư hóa gan. Điều cốt yếu là không ăn quá nhiều, quá dư thừa.
Nên ăn thành nhiều bữa nhỏ trong ngày, không được ăn quá no, không ăn những thức ăn khó tiêu có nhiều gia vị cay như tiêu, ớt, hành tây, nhiều dầu mỡ, sẽ làm cho đầy bụng vì khó tiêu. giảm muối, bột ngọt (mì chính) 4g/ngày.
Cần chế biến thức ăn như kho, nấu, luộc, hấp, tăng cường ăn các loại rau xanh và quả chín như rau ngót, rau muống, rau cải, rau giền, cà rốt, cà chua, bí đỏ, giá đỗ và các loại quả như cam, quýt, xoài, đu đủ chín... để cung cấp vitamin và muối khoáng.
Ngoài ra hàng ngày uống đủ nước từ 1,5lít- 2 lít, không nên uống rượu bia, café, và hút thuố.c l.á, ở những người nghiệ.n rượu bia lâu ngày dễ dẫn tới viêm gan, xơ gan, đặc biệt dễ nhiễm siêu vi C và làm các bệnh gan trở nên trầm trọng hơn, do vậy tuổ.i thọ sẽ giảm so với những người bị viêm gan mà không uống rượu bia.
Phải giữ gìn vệ sinh thực phẩm an toàn, tránh ăn những thực phẩm bị ôi thiu, nhiễm hóa chất để phòng ngừa ngộ độc thực phẩm. Vì gan là chức năng chính là xử lý và đào thải chất độc cho cơ thể, nên khi bị ngộ độc thực phẩm, gan sẽ phải làm việc nhiều hơn, có thể đẩy nhanh thêm quá trình tổn thương ở gan.
Một điều cần lưu ý hạn chế dùng thuố.c một cách tối đa vì có nhiều loại thuố.c gây độc cho gan như Paracetamol, nếu phải dùng thuố.c nên tuân theo chỉ định của bác sĩ, không được tự ý dùng thuố.c bừa bãi.
Theo TPO
Người sốt như nào cần truyền dịch? Nhiều trường hợp lạm dụng truyền dịch để hạ sốt, nhưng điều này là vô cùng nguy hiểm và thậm chí có thể t.ử von.g. Vậy trong trường hợp người bệnh bị sốt như thế nào thì mới cần truyền dịch? Ảnh mang tính minh họa. Bác sĩ Đỗ Thiện Hải - Phó trưởng khoa truyền nhiễm, Bệnh viện Nhi Trung ương cho...