LienVietPostBank được vinh danh giả.i thưởn.g Ngân hàng Số Tiêu biểu 2019
VOBA 2019 là giả.i thưởn.g thường niên và uy tín trong lĩnh vực Ngân hàng nhằm tìm kiếm và tôn vinh các ngân hàng có những hoạt động xuất sắc và đóng góp tiêu biểu cho sự phát triển của ngành ngân hàng nói riêng và lĩnh vực tài chính nói chung trong năm.
Ngân hàng Bưu điện Liên Việt ( LienVietPostBank) vinh dự nhận được giả.i thưởn.g “Ngân hàng Số Tiêu biểu” tại Lễ trao Giả.i thưởn.g Ngân hàng Việt Nam tiêu biểu (VOBA) năm 2019 do Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) và Tập đoàn dữ liệu Quốc tế IDG đồng tổ chức. Đây là năm thứ 2 liên tiếp LienVietPostBank được xướng tên tại các hạng mục giả.i thưởn.g VOBA.
Các giả.i thưởn.g của VOBA 2019 được xét duyệt dựa trên nhiều tiêu chí khắt khe và được đán.h giá một cách khách quan, độc lập bởi các chuyên gia đại diện các cơ quan Chính phủ, bộ, ngành, hiệp hội trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Trải qua ba vòng xét duyệt, đán.h giá được thực hiện với quy trình minh bạch, nghiêm túc, kỹ lưỡng gồm: Vòng hồ sơ, vòng phỏng vấn trực tiếp và vòng bình chọn, LienVietPostBank với ứng dụng Ví Việt – dịch vụ Ngân hàng số đã chính thức chinh phục được Ban tổ chức để giành giải Ngân hàng số tiêu biểu 2019.
Trước đó, năm 2018, LienVietPostBank cũng đã vinh dự nhận được giải Doanh nghiệp Fintech tiêu biểu 2018.
Ví Việt là tên gọi tắt Thẻ phi vật lý Ví Việt của LienVietPostBank được NHNN cho phép triển khai dịch vụ từ tháng 8/2016. Ví Việt do LienVietPostBank tự nghiên cứu xây dựng trong lộ trình xây dựng Ngân hàng số; Hiện tại ứng dụng Ví Việt được sử dụng trên Smarphone và trên Web đảm bảo tính năng bảo mật, an toàn nhiều tiện ích cho người dùng; Ví Việt cung cấp đầy đủ tính năng thanh toán, giao dịch ngân hàng đa dạng như: khách hàng tự tạo tải ứng dụng và khai báo tài khoản chưa định danh là số điện thoại đang sử dụng, dễ dàng nạp tiề.n và.o Ví Việt bằng tiề.n mặt tại quầy giao dịch, từ tài khoản ngân hàng, từ thẻ tín dụng.. và sử dụng theo quy định về hạn mức Ví của NHNN để dễ dàng thực hiện việc thanh toán hơn 200 dịch vụ (bao gồm thanh toán điện, nước, viễn thông, dịch vụ chung cư; thanh toán học phí; thanh toán các khoản vay tiêu dùng; thanh toán bảo hiểm, dịch vụ công có thu…), mua sắm online (mua vé tàu, vé máy bay, đặt phòng khách sạn, trả tiề.n viện phí, học phí…), chuyển, nhận tiề.n từ Ví đến Ví, đến tài khoản gần 40 ngân hàng nội địa khác trong nước;
Người sử dụng Ví Việt có thể thực hiện tại quầy giao dịch việc liên kết với Tài khoản thanh toán đã mở, thẻ tín dụng đã có tại LienVietPostBank để tiện lợi cho người dùng; thực hiện các dịch vụ ngân hàng online như: nạp/rút tiề.n từ Ví vào Tài khoản thanh tóan, vào Thẻ; gửi tiết kiệm, vay cầm cố sổ tiết kiệm, tra cứu tài khoản ngân hàng, tất toán sổ tiết kiệm, ủy thác thanh toán…
Ngoài ra ứng dụng Ví Việt còn hỗ trợ phát triển hệ sinh thái các đối tác cung cấp sản phẩm, dịch vụ online, các điểm kinh doanh chấp nhận thanh toán Ví Việt (như: giới thiệu dịch vụ, tìm đường đến điểm cung cấp dịch vụ, quản lý hệ thống điểm chấp nhận thanh toán..); Ví Việt đã nhận được nhiều giải ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực tài chính trong nước và quốc tế như: Giải Sao Khue 2017, TOP 10 ứng dụng CNTT xuất sắt nhất VN, Ngân hàng có ứng dụng thanh toán không dùng tiề.n mặt; đặc biệt cuối năm 2017, Ví Việt đã đạt giải nhì APICTA của Liên minh CNTT Châu Á – Thái Bình dương.
Đến tháng 11/2019, Ví Việt đã phát triển được hơn 2.7 triệu người dùng, hơn 35.000 điểm chấp nhận thanh toán; Ví Việt đã được nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước lựa chọn là giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiề.n mặt theo chủ trương của Chính phủ.
Video đang HOT
Ví Việt được coi là sản phẩm chủ lực của LienVietPostBank, là nền tảng chính để LienVietPostBank xây dựng Ngân hàng số tích hợp đa kênh cung cấp dịch vụ Ngân hàng trực tuyến, Thẻ và Ví điện tử online trên cùng một ứng dụng một cách an toàn, tiện ích, mọi lúc, mọi nơi phục vụ mọi tầng lớp người dân trên toàn quốc và góp phần quan trọng vào mục tiêu chiến lược trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam của LienVietPostBank.
Theo Dân Việt
Ngân hàng số thấy gần nhưng vẫn xa
Thói quen sử dụng tiề.n mặt của người Việt Nam khiến NH số khó phát triển.
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ người sử dụng internet và điện thoại di động (ĐTDĐ) phát triển khá mạnh những năm gần đây. Tuy nhiên, thói quen sử dụng tiề.n mặt, an ninh mạng chưa an toàn và việc thiếu hụt các quy định pháp lý, đang là yếu tố kìm hãm sự phát triển của mảng thanh toán số theo tiến bộ công nghệ.
Hạ tầng số thuận lợi
Ngành NH được xác định là một trong những ngành có nhiều ứng dụng mới dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến. Trong bối cảnh kinh tế số phát triển, lĩnh vực NH số trở thành định hướng tập trung, nhằm tạo ra các dịch vụ mới và xây dựng lợi thế cạnh tranh của các NH.
Xu hướng này càng được củng cố hơn, khi đề án phát triển thanh toán không dùng tiề.n mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020 đặt mục tiêu đưa tỷ trọng tiề.n mặt/tổng phương tiện thanh toán giảm về mức 10% vào cuối năm 2020. Tại thời điểm tháng 6-2019, tỷ lệ này là 11,5%.
Thói quen sử dụng tiề.n mặt của người Việt Nam khiến NH số khó phát triển. Ảnh: VIẾT CHUNG
Hiện hạ tầng số (liên quan đến việc sử dụng internet và ĐTDĐ) của Việt Nam có mức độ phát triển khá cao, với số lượng người dùng internet và ĐTDĐ năm 2018 đạt lần lượt 55,2 triệu người và 45,8 triệu người (chiếm 57% và 45% dân số).
Trong đó, tỷ lệ thâm nhập của điện thoại thông minh (smartphone) tăng rất mạnh trong 5 năm trở lại đây, đặc biệt ở các thành phố lớn đã đạt 84% vào năm 2017. Theo dự báo, mức độ thâm nhập của internet và ĐTDĐ sẽ còn tiếp tục mở rộng, Việt Nam sẽ đạt khoảng 60 triệu người sử dụng internet và 55,4 triệu người dùng ĐTDĐ vào năm 2022.
Từ những lý do trên, trong những năm gần đây, thanh toán điện tử được đẩy mạnh đã tạo nên làn sóng thúc đẩy phát triển mảng NH số tại Việt Nam.
Theo NHNN, tính đến cuối năm 2018, hệ thống thanh toán điện tử liên NH đã xử lý 137.594 giao dịch, với giá trị 73 triệu tỷ đồng, gấp 13 lần GDP. Do vậy, mảng NH số tại Việt Nam có cả cơ hội và thách thức để phát triển mạnh trong thời gian tới.
Thói quen sử dụng tiề.n mặt
Tuy nhiên, mức độ thâm nhập của dịch vụ NH nói chung tại Việt Nam còn thấp so với các thị trường mới nổi và cận biên. Tính đến cuối tháng 6-2018, cả nước mới có trên 72,7 triệu tài khoản NH của cá nhân (tăng 5% so với cuối năm 2017). Số người dân có tài khoản tại NH ở mức gần 43,2 triệu người, chiếm 45% dân số, tương đối khiêm tốn so với tỷ lệ tương ứng tại các nước mới nổi và cận biên khác.
Ngoài ra theo số liệu của NH Thế giới (WB), số lượng ATM và chi nhánh NH trên mỗi 100.000 người trưởng thành ở Việt Nam lần lượt ở mức 24,3 và 3,4. Con số này thấp hơn so với các quốc gia có điều kiện tương tự.
Nguyên nhân do đại đa số người Việt hiện vẫn có thói quen sử dụng tiề.n mặt trong thanh toán hàng ngày. Kể từ khi bắt đầu đề án phát triển thanh toán không dùng tiề.n mặt vào năm 2016, đến nay tỷ lệ tiề.n mặt/tổng phương tiện thanh toán vẫn đang cải thiện khá chậm.
Theo nghiên cứu của FT Confidential khảo sát về phương thức thanh toán khi mua hàng của người thành thị khu vực ASEAN, hơn 46% người Việt được hỏi chỉ sử dụng tiề.n mặt khi thanh toán. Đây là mức cao hơn hẳn so với các quốc gia như Philippines (34%) và các nước còn lại (ở mức 20% hoặc ít hơn). Từ đó cho thấy, thói quen sử dụng tiề.n mặt của người Việt Nam vẫn còn phổ biến và khó có thể thay đổi trong "1 sớm 1 chiều".
Kỳ vọng rút ngắn thời gian
Việt Nam có mức độ thâm nhập của NH truyền thống còn thấp, trong khi hạ tầng số đã phát triển khá mạnh. Vì thế, khi mức độ thâm nhập của các dịch vụ NH được đẩy mạnh, Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi để phát triển các giao dịch NH số trong trung hạn so với các quốc gia khác.
Ngoài khó khăn do thói quen sử dụng tiề.n mặt, vấn đề an toàn bảo mật thông tin tài chính trong môi trường số cũng gặp nhiều cản trở, khi năng lực an toàn thông tin trong nước còn hạn chế.
Theo số liệu của Ernst & Young Việt Nam, trong năm 2018 có 8.319 cuộc tấ.n côn.g mạng liên quan đến ngành NH ở Việt Nam, 560.000 máy tính bị ảnh hưởng bởi phần mềm độc hại có thể đán.h cắp thông tin tài khoản NH. Việt Nam xếp hạng 7 toàn cầu trong mục tiêu tấ.n côn.g của Trojan (chương trình độc hại được ngụy trang với vẻ ngoài lành tính) năm 2018.
Đặc biệt, việc thiếu hụt các quy định pháp lý cũng là thách thức không nhỏ, do mảng thanh toán số phát triển rất nhanh theo các tiến bộ công nghệ. Hiện các quy định pháp lý trong nước không theo kịp, khiến NH ngại áp dụng công nghệ, dịch vụ mới ngoài khuôn khổ cho phép.
Thí dụ, đến nay nước ta vẫn chưa có khung pháp lý về chia sẻ, khai thác và lưu trữ dữ liệu. Sự chậm trễ này khiến các NH chưa thể ứng dụng điện toán đám mây (cloud), hay chuỗi khối (blockchain) rộng rãi vào các ứng dụng của mình.
Tháng 8 vừa qua, Chính phủ đã phê duyệt đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ. Trong đó cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới (dạng sandbox) cho việc triển khai và ứng dụng các công nghệ mới trong mô hình này.
Đây cũng là phương thức được nhiều nước áp dụng thành công trước đây, kỳ vọng có thể giúp rút ngắn thời gian nghiên cứu, ban hành các điều luật mới về NH số, nhằm theo kịp sự phát triển không ngừng của công nghệ.
Theo sài gòn đầu tư
Ngân hàng 'chạy đua' số hóa Việc chuyển đổi số của một ngân hàng diễn ra rất đa dạng. Trên lý thuyết, ngân hàng được xem là đã số hóa hoàn toàn khi tất cả các hoạt động từ bên ngoài (tiếp cận trực tiếp với khách hàng như hoạt động gửi tiề.n, cho vay, chuyển tiề.n,...), và hệ thống bên trong (phân tích dữ liệu lớn để tiến...