Làng tỉ phú vùng biên, biệt thự san sát, sáng ra đã có chục triệu
Hơn chục năm về trước, về những làng đồng bào thiểu số ở vùng biên giới huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai, tìm đỏ mắt mới thấy một căn nhà đúng nghĩa, hầu hết đều nghèo xơ xác. Nhưng nay, nhà tầng, biệt thự mọc lên san sát bên những con đường nhựa phẳng ì.
Và, nhiều làng được gọi bằng cái tên mới: Làng tỉ phú.
Trong lần ngồi nhâm nhi li cà với anh bạn ở phố núi Pleiku, Gia Lai, tôi ngỏ ý nhờ anh dẫn đường lên Đức Cơ viết bài về những làng đồng bào dân tộc thiểu số giàu lên nhờ làm kinh tế giỏi. Anh nghe xong gật đầu cái rụp, đáp gọn lỏn: “Sáng mai đi luôn”.
Bây giờ, ở các làng biên giới huyện Đức Cơ, những ngôi nhà khang trang như thế này rất nhiều
Sáng sớm, tiết trời phố núi se lạnh, chiếc xe hơi loại “bình dân” của anh bạn bon bon trên quốc lộ 19. Dọc hai bên đường, những vườn cà phê, cao su ngút ngàn, còn ướt đẫm sương đêm. “Từ đây lên thị trấn Chư Ty, huyện lị của Đức Cơ chỉ hơn 50 cây số, nhưng khoảng 15 năm trước, đi gần 1 ngày mới tới. Sau đó, đi thêm hơn nửa ngày nữa mới về đến làng Poong, mặc dù chỉ cách thị trấn Chư Ty hơn 20km. Còn bây giờ, đi chỉ 1 tiếng rưỡi”, anh bạn tôi nói.
Đến làng Poong, xã Ia Dơk, chúng tôi tìm đến nhà ông Rơ Mah M’rao, 60 tuổ.i, dân tộc J’rai, một trong những tỉ phú đầu tiên ở xã và là người đầu tiên trong làng sắm két sắt đựng tiề.n. Thấy khách lạ, ông không tỏ vẻ nhạc nhiên mà vồn vã: “Khách lạ gặp nhiều rồi. Ngày xưa nghèo thì ngại, bây giờ quen rồi. Khách đến ăn uống thoải mái, muốn ở lại cũng được, nhà to, nhiều phòng mà”.
Vợ chồng tỷ phú Rơ Mah M’rao, ở làng Poong, xã Ia Dơk, huyện Đức Cơ
Hỏi những yếu tố nào khiến ông và nhiều dân làng giàu lên? Ông Rơ Mah M’rao nói: “Có nhiều nguyên nhân. Nhưng quan trọng nhất là giữ được đất. Ngày xưa, lúc còn đói khổ, nhiều người mang đồ đạc dưới xuôi đến đây bán. Bà con ai thấy cũng thích, nhưng không có tiề.n mua, họ bảo mình bán đất, họ mua, vừa có đồ dùng, lại có tiề.n xây nhà, tiêu xài. Bà con nghe bùi tai, nghĩ đất mình bỏ hoang, có làm được đâu, thế là bán. Rất nhiều nhà ở các làng khác đã bán hết đất, trở thành trắng tay”.
Nhưng khi những người mua đất tìm về làng Poong thì không mua được miếng đất nào. Ấy là nhờ công của già làng K’sor Danh. Biết chuyện nhiều người dân bị dụ dỗ bán đất, già làng đã đến từng nhà khuyên nhủ bà con không được bán, muốn hết đói nghèo thì phải có đất. Nhờ uy tín mà người dân nghe theo lời khuyên của già làng. Ngoài già làng K’sor Danh, ông Rơ Mah M’rao cũng là người tích cực vận động bà con không bán đất. “May là bà con nghe theo mình. Giờ làm một năm, nhiều người đủ tiề.n mua xe hơi chứ không phải xe máy”, ông M’rao nói.
Sau đó không lâu, Công ty 75 thuộc Binh đoàn 15 về Đức Cơ làm kinh tế, ông Rơ Mah M’rao và hàng trăm lao động khác trong xã được nhận vào làm công nhân. Bắt đầu từ đây, ông học được nhiều kiến thức làm kinh tế. Sau đó, ông về thực hiện trồng các cây công nghiệp như cao su, điều, xen cây ngắn ngày như lúa, khoai lang, khoai mì, đậu, bắp… vào các lô cao su, điều mới trồng. Ngoài ra, ông còn nuôi bò, heo, dê, gà. Vào những ngày cao điểm thu hoạch, 9 người trong gia đình ông làm cật lực mà không hết việc, phải thuê thêm hơn chục người làm.
Riêng ông, thường thức trắng nhiều đêm. Đây cũng là lúc ông sắm két sắt để chứa hàng trăm triệu đồng trước khi có thời gian mang đi gửi ngân hàng.
Video đang HOT
Nhiều làng giàu
Giờ đây, không nhà nào ở làng Poong không có đất, ít cũng có 3 đến 4ha đất, nhiều thì hàng chục ha. Nhờ chịu khó làm ăn và biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất cà phê, tiêu, điều và cao su nên đời sống của người dân ngày một khá giả. Trong số hơn 230 hộ của làng, chiếm đến 2/3 hộ khá và giàu.
Chỉ cần đến chợ, đến nơi người dân sống là biết đời sống của họ ra sao
Riêng gia đình Rơ Mah M’rao, tài sản gồm 20ha cao su tiểu điền, 3ha cà phê đang thu hoạch, 5 sào lúa nước 2 vụ, hơn 20 con bò, ngôi nhà 3 tầng trị giá hơn 2 tỷ đồng, một xe Huyndai Tucson 5 chỗ ngồi mới mua hơn 1 tỷ đồng, một xe du lịch Toyota 12 chỗ ngồi, một xe tải… Mỗi buổi sáng thức dậy, gia đình ông lại thu hơn chục triệu đồng từ các nguồn trên chính mảnh đất của mình. Bình quân mỗi vụ thu hoạch, sau khi trừ chi phí, ông còn khoảng 1,5 tỷ đồng.
“Ngày xưa, thấy cái gì cũng thèm, cũng muốn có, nhưng không thể có. Bây giờ, mua một con trâu đực lớn để làm lễ cúng Giàng, cũng đơn giản như mua một con gà thôi”, ông nói.
Làng Poong hôm nay đã khoác chiếc áo hoàn toàn mới, sang trọng hơn, biệt thự, nhà tầng rất nhiều, kém lắm thì cũng nhà xây, đầy đủ tiện nghi. Nhiều nhà sắm được xe chở nông sản, ô tô để đi làm ăn, đi chơi.
Phần được thiên nhiên ưu đãi, phần do cần cù chăm bón, áp dụng đúng kỹ thuật, nhiều vườn cà phê ở Gia Lai nói chung và huyện Đức Cơ nói riêng, cho năng suất rất cao (Ảnh: thu hái cà phê ở xã Ia Kriêng)
Trầm ngâm bên tách trà nóng, Rơ Mah M’rao nói: “Cái thời đói khổ, làm đến đâu ăn hết đến đó, manh áo không đủ ấm, người già ốm đau không thuố.c chữa, lũ trẻ cả ngày lang thang ngoài rừng, ngoài suối, lấm lem bùn đất, không học hành… là dĩ vãng rồi. Không phải chỉ riêng làng Poong đâu, nhiều làng khác cũng giàu”.
Chia tay làng Poong, trên đường về, chúng tôi ghé vào làng Grôn, xã Ia Kriêng. Đúng như lời Rơ Mah M’rao nói, ngôi làng nhỏ của đồng bào J’rai này cũng đang giàu lên từng ngày. Đường giao thông về xã đã được nhựa hóa, hai bên đường là những vườn cà phê cực đẹp, nhiều cây nhìn chỉ thấy trái chín đỏ, không thấy cành, lá đâu, rồi những rừng cao su bạt ngàn, chạy dài mút tầm mắt.
Gặp già làng Pui Bưa, ông xúc động nói: “Gần chục năm trước, làng nghèo lắm, nhà đủ ăn chỉ đếm trên đầu ngón tay. Đất nhiều nhưng không biết làm. Đến khi có bộ đội về làm thì bà con mới học được cách trồng cây, chăm sóc cây, ai cũng biết làm sao để cây cà phê lớn nhanh, có nhiều quả, làm sao cho cây cao su chảy nhiều nhựa. Giờ làng không còn ai đói, nhiều người giàu, mỗi năm mang về nhà cả tỷ đồng đấy”.
Anh Kpui Chel (bên trái), một trong những người giàu nhất làng Grôn, xã Ia Kriêng
Gặp chúng tôi, anh Kpui Chel, 40 tuổ.i, Đội phó Đội 10, Công ty cao su 75, một trong những tỷ phú trẻ ở làng Grôn, khoe: “Vợ chồng mình có 4ha cao su tiểu điền, 1,4ha cà phê, 2ha mì, 300 trụ tiêu, 2 hồ cá. Rồi nhận khoán thêm 2ha cao su của công ty nữa. Mỗi năm thu từ 700 triệu đến 1 tỷ đồng. Giờ trong nhà cái gì cũng có, 2 vợ chồng mỗi người một xe máy đắt tiề.n”.
Tôi hỏi: “Đắt tiề.n là bao nhiêu?”. Kpui Chel đáp: “Bằng 3 tấn cà phê nhân thôi, chưa đắt bằng nhiều người khác mua đâu”. Tôi hỏi tiếp: “Thế tiề.n còn lại anh làm gì?”.
Anh đáp: “Nuôi con, cho con học hành, xây nhà, mua ô tô gần 300 triệu đồng để đi làm và thỉnh thoảng chở vợ con đi chơi. Ở làng mình nhiều người cũng có thu nhập cao, như vợ chồng Rơmah Chiu, Ksor Găn, Rơ Lan In, Rơ Lan Lim…”.
Huyện biên giới Đức Cơ cách đây 10 – 15 năm, nghèo lắm, nhờ có chính sách của nhà nước, các đơn vị làm kinh tế về đây hướng dẫn bà con canh tác, sản xuất. Nhờ vậy mà đẩy lùi được cái đói, dần tiến lên khá, giàu. Hiện nay rất nhiều làng đồng bào giàu có, thu nhập hàng trăm triệu đồng một năm như thôn Chư Bồ 1, xã Ia Kla, làng Poong, xã Ia Dơk, làng Grôn, xã Ia Kriêng… Đây là điều mà đồng bào dân tộc thiểu số chưa bao giờ dám mơ tới”, ông Nguyễn Hồng Lam, Chủ tịch UBND huyện Đức Cơ.
Theo Khương Hồng Thuỷ (Nông nghiêp Viêt Nam)
Bộ trưởng Bộ NNPTNT: Điều vô lí của ngành tiêu, 3 năm rối loạn giá
Với một ngành hàng được coi là đặc biệt quan trọng xét ở nhiều khía cạnh, nhưng lại rơi vào thảm cảnh 3 năm liên tiếp rớt giá là 1 điều vô lí đối với ngành hồ tiêu.
Tại Hội nghị quốc tế ngành hồ tiêu Việt Nam 2018, tổ chức tại TP.HCM sáng ngày 4.12, Bộ trưởng Bộ NNPTNT Nguyễn Xuân Cường thẳng thắn nêu ra thực trạng này để cùng tìm nguyên nhân cũng như biện pháp phát triển bền vững cho hồ tiêu Việt Nam trong thời gian tới.
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng các thành phần tham gia chuỗi hồ tiêu chưa đồng chuẩn theo 1 vector khiến thị trường biến đảo rối loạn. Ảnh: Nguyên Vỹ
Theo Bộ trưởng, hồ tiêu có một vị trí đặc biệt trong đời sống nói chung và ngành nông nghiệp Việt Nam nói riêng. Hồ tiêu đặc biệt trước hết ở gia vị đặc trưng. Thứ hai, là ngành tuy có diện tích sản xuất không lớn nhưng giá trị lại không hề nhỏ.
"Điều đặc biệt nữa là ngành này lại rơi vào tình trạng 3 năm liền xuống giá. Đây là điều phi lí với một ngành đặc thù như hồ tiêu. Nó đưa đến thảm cảnh làm cho cả người sản xuất lẫn người tham gia chuỗi cung ứng đều bị động. Nguy cơ rủi ro có thể ra xảy ra bất cứ lúc nào làm đ.e dọ.a ngành hàng", Bộ trưởng nói.
"Hồ tiêu trong nước có nhiều yếu tố thuận lợi để phát triển nhưng tại sao chỉ trong vòng 5 năm, diện tích tăng gấp 3 lần, giá trị bị đảo ngược từ cao xuống thấp?", vị lãnh đạo ngành nông nghiệp đặt câu hỏi.
Người đứng đầu ngành nông nghiệp, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường thừa nhận thảm cảnh này bắt nguồn từ chỗ các thành phần tham gia chuỗi từ Trung ương, địa phương, doanh nghiệp đến người sản xuất chưa đồng chuẩn theo 1 vector.
Thảm cảnh rớt giá liên tục làm cho cả người sản xuất lẫn người tham gia chuỗi cung ứng hồ tiêu đều bị động, gặp nhiều nguy cơ. Ảnh: Nguyên Vỹ
"Thị trường biến đảo rối loạn, xáo trộn không mang tính ly tâm, giá cả đảo chiều nhảy từ cực nọ sang cực kia. Đến giờ, giá tiêu tiệm cận cả giá thành, làm đ.e dọ.a cả ngành hàng trong nước", Bộ trưởng chỉ ra nguy cơ.
Hội nghị quốc tế ngành hồ tiêu Việt Nam 2018 vì thế được đán.h giá là cuộc gặp quan trọng với cả Bộ trưởng, Thứ trưởng, các Cục trưởng ngành nông nghiệp cùng với các nhà nhập khẩu gia vị hàng đầu thế giới, các hiệp hội hồ tiêu trong nước và quốc tế tham gia. Đây là cơ hột tốt để liên kết nhau, tránh triệt tiêu lẫn nhau, cùng thế giới hướng tới phát triển hồ tiêu bền vững.
Trong thời đại công nghệ đang phát triển, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường tin tưởng hồ tiêu vẫn còn nhiều dư địa phát triển; nhiều cơ hội đa dạng hóa ngành hàng, chủng loại sản phẩm. Các thành viên trong hiệp hội thế giới vẫn có thể tìm thấy chỗ đứng và giá trị đúng mức cho sự đóng góp của mình.
Với Hiệp hội Hồ tiêu quốc tế, Bộ trưởng đề nghị cần tiếp tục tôn trọng, giữ vững từng tôn chỉ mục đích sao cho đúng nghĩa để từ đó có định hướng phát triển, sản xuất phù hợp cho thị trường toàn cầu.
Với Việt Nam, Bộ trưởng cho biết ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ tuân thủ nhiệm vụ không tăng diện tích, thậm chí phải giảm trong thời gian tới. Ngành nông nghiệp sẽ tái cơ cấu lại theo hướng không tăng diện tích nhưng nâng cao hơn chất lượng sản phẩm.
Từ đó, Bộ trưởng cũng đặt yêu cầu ngược lại với cộng đồng doanh nghiệp và người sản xuất trong nước phải tuân thủ chủ trương lấy chất lượng và an toàn thực phẩm làm đầu để cùng cam kết thực hiện. Việt Nam có 1 bộ phận làm tiêu hữu cơ. Thời gian tới Bộ và Chính phủ sẽ tiến tới ban hành quy định sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ để thể hiện quyết tâm của Chính phủ và ngành nông nghiệp Việt Nam với ngành hàng này.
Ngành nông nghiệp hướng tới sản xuất hồ tiêu bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Ảnh: Nguyên Vỹ
"Nhà nước sẽ cùng đồng hành với ngành hồ tiêu hướng đến phát triển bền vững, đem lại thu nhập ổn định trước hết cho nông dân. Đồng thời, tìm biện pháp xây dựng bền vững hồ tiêu Việt Nam trong chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu", Bộ trưởng cam kết.
Theo ông Nguyễn Nam Hải - Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, năm 2017, Việt Nam mất mùa nhưng do diện tích tăng nên nguồn cung nguyên liệu tăng. 6 tháng đầu năm 2018, giá hồ tiêu diễn biến phức tạp theo hướng giảm mạnh, đem lại nhiều rủi ro cho cả nông dân lẫn doanh nghiệp.
Giá xuất khẩu tiêu đen 6 tháng đầu chỉ còn 3.2644 USD/tấn, giảm gần 40%; tiêu trắng giảm còn 4.968 USD/tấn, giảm 38% so với giá trung bình cùng kỳ năm 2017.
Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam nhận định năm 2019, diễn biến thời tiết không có dấu hiệu gì bất lợi cho hồ tiêu toàn cầu. Nguồn cung từ các nước sẽ ổn định. Hồ tiêu các loại do vậy giá cả sẽ khó đi lên như các năm trước. Trong nước, hồ tiêu cũng sẽ không giảm mạnh do nông dân đều đã không còn tìm thấy hiệu quả kinh tế cao từ ngành hàng này.
"Nông dân không còn đầu tư mạnh và trồng mới, mà đang có hướng chuyển đổi sang trồng xen canh với cây khác. Tuy nhiên vẫn không chặt bỏ vườn cũ nên nguồn cung trong nước và thế giới sẽ dần cân đối với nhu cầu chung", ông Hải nhận định.
Theo Danviet
Giá nông sản hôm nay 22/11: Giá cà phê tiếp tục giảm 200 đồng, giá tiêu "mất" 1.000 đồng Thị trường nông sản hôm nay ghi nhận sự giảm giá của cả 2 loại nông sản chủ lực: giá cà phê giảm tiếp 200 đồng, còn giá tiêu giảm đồng loạt 1.000 đồng/kg ở hầu hết các địa phương. Mức giảm của giá cà phê tuy không nhiều nhưng cũng đẩy sự lo lắng của nông dân lên cao hơn do giá...