Hành trình kết nối yêu thương
Ba năm qua, Nhóm thiện nguyện thể thao Phương Dũng đã trao tặng hàng nghìn phần quà tới đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, t.rẻ e.m có hoàn cảnh khó khăn ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước.
Sáng lập và đồng hành cùng nhóm thiện nguyện là vợ chồng chị Nguyễn Mai Phương và anh Lê Như Hạc (tên thường gọi là Dũng) ở tổ dân phố Nguyên Xá 3, phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
Ảnh minh họa
Là người kinh doanh dụng cụ thể thao, chị Phương luôn muốn được chia sẻ, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn. Hè năm 2013, chị cùng chồng mời giáo viên về dạy miễn phí các môn Tiếng Anh, Toán, Tiếng Việt, kỹ năng sống cho 40 t.rẻ e.m có hoàn cảnh khó khăn tại nhà anh chị. Sau ba tháng hè, lớp học đã giúp các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn được ôn luyện, củng cố, nâng cao kiến thức để tự tin khi bước vào năm học mới. Lớp học trang bị cho các em chuẩn bị vào lớp 1 các kỹ năng cần thiết, giúp các em bớt bỡ ngỡ, lo lắng, làm quen với nền nếp học tập. Không chỉ chi trả toàn bộ chi phí bồi dưỡng cho giáo viên đứng lớp, anh Dũng, chị Phương còn mua sữa, lo toàn bộ t.iền điện cho các cháu theo học. Được các phụ huynh tín nhiệm, từ năm 2013 đến nay, năm nào chị cũng duy trì lớp học này. Chị Phương cho biết, gia đình chị rất vui vì hiệu quả mà lớp học mang lại. Điều đáng mừng là nhiều gia sư, sinh viên khi biết việc làm của chị đã tự nguyện giảm t.iền dạy, có bạn chỉ lấy t.iền đổ xăng. Con gái lớn của anh chị nhận dạy Tiếng Anh miễn phí cho các em vào dịp hè.
Không dừng lại ở việc mở lớp học, từ năm 2015, chị Phương lập Nhóm thiện nguyện thể thao Phương Dũng để giúp đỡ được nhiều hơn nữa các số phận có hoàn cảnh khó khăn, đồng bào bị ảnh hưởng thiên tai, bão lụt. Nhóm hiện có mười thành viên với nhiều nghề nghiệp khác nhau, nhưng cùng chung đam mê là được làm việc có ích cho cộng đồng. Qua nhiều kênh thông tin, nhóm lựa chọn những cá nhân cần giúp đỡ, rồi vận động người thân trong gia đình, bạn bè tham gia. Việc ủng hộ có thể bằng t.iền, hiện vật, chi phí thuê xe ô-tô để vận chuyển hàng đến tận tay những người có hoàn cảnh khó khăn. Mọi việc liên quan đến quá trình từ thiện đều được ghi chép, công khai để những người ủng hộ nắm được. Riêng kinh phí để tổ chức các chuyến đi đều do anh em trong nhóm đóng góp, không sử dụng đến nguồn tài trợ cho đối tượng.
Trước mỗi chuyến đi, mọi người trong nhóm cố gắng thu xếp công việc đến nhà chị Phương để cùng phân loại, đóng gói quà. Nhiều người dân nơi chị Phương sinh sống biết chuyện cũng đến làm giúp. Bận rộn nhưng không ai thấy mệt bởi họ biết, sẽ có rất nhiều những nụ cười và cả những giọt nước mắt xúc động của cả người cho lẫn người nhận. Tình người ấm áp chất chứa trong mỗi phần quà khiến cuộc sống thêm đẹp, thêm ý nghĩa. Cho đến nay, Nhóm thiện nguyện thể thao Phương Dũng đã tổ chức rất nhiều chuyến trao quà cho các số phận có hoàn cảnh khó khăn tại huyện Mù Cang Chải (Yên Bái), huyện Kim Bôi (Hòa Bình), huyện Hương Khê (Hà Tĩnh), huyện Quỳ Châu (Nghệ An), huyện Mường La (Sơn La)… Tổng số quà tặng khoảng 6.000 suất, trị giá hơn 2,6 tỷ đồng. Bên cạnh đó, nhóm còn vận động quyên góp giúp đỡ một trường hợp ở huyện Thanh Oai được 12 triệu đồng; đưa một cháu ở Nghệ An đến khám điều trị ở Bệnh viện Mắt Trung ương…
Chị Phương chia sẻ, những việc làm của Nhóm thiện nguyện thể thao Phương Dũng còn khiêm tốn. Nhóm chỉ tâm niệm có thêm sức khỏe để nối dài hơn nữa những hành trình đầy ắp yêu thương, kết nối giữa người có tấm lòng thiện nguyện và những số phận có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, với ước muốn được chia sẻ, giúp đỡ họ có thêm niềm tin, động lực để vươn lên trong cuộc sống.
MINH HUỆ
Theo nhandan
Video đang HOT
Tiếng Việt và đặc điểm tư duy Việt
Đặc điểm tư duy của một cộng đồng người chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: các điều kiện tự nhiên (địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng...),
Hình thái kinh tế-xã hội, truyền thống văn hóa, sự giao lưu giữa các cộng đồng... cả những sự kiện và yếu tố ngẫu nhiên, nhưng quan trọng nhất là ngôn ngữ.
Việc học các môn ngoại ngữ theo lộ trình là hết sức quan trọng nhằm phát triển tư duy ngôn ngữ. Ảnh: iSMART
Con người không thể tư duy bên ngoài ngôn ngữ
Lý do khá hiển nhiên: ngôn ngữ là công cụ tư duy - con người hầu như không thể tư duy bên ngoài ngôn ngữ. Bạn có thể phản bác: âm nhạc hay hội họa đâu có cần ngôn ngữ? Thật ra, khi sáng tác, nghiên cứu hoặc thưởng thức âm nhạc và hội họa, chúng ta vẫn cần một thứ nội ngôn, cái mà chúng ta hay gọi là "tư tưởng" hay "thông điệp" của tác phẩm.
Ví dụ dễ thấy nhất là những cái tên tác phẩm: "Bức thư gửi Elise" (Beethoven), "Bốn mùa" (Vivaldi), "Những cô gái Avignon" (Picasso)... Trong đời sống cũng vậy. Chẳng hạn, cô gái lần đầu được chàng trai mời đi chơi tối thứ bảy. Cô tự hỏi: nên mặc gì?
Mặc quá đẹp, anh ta có thể nghĩ mình quá thích anh ta. Mặc quá đơn giản, anh ta lại nghĩ rằng mình thiếu óc thẩm mỹ. Vậy mình nên mặc bộ này, đủ đẹp, đủ để anh ta biết rằng mình có cảm tình nhưng không quá vồ vập... Thứ nội ngôn như vậy đóng vai trò sợi chỉ xuyên suốt những hành động xã hội có ý nghĩa của con người.
Ảnh hưởng của ngôn ngữ đối với tư duy đã được nhiều người nghiên cứu, nổi tiếng nhất là Edward Sapir và học trò là Benjamin Whorf. Nhưng trước Sapir khoảng một thế kỷ, Wilhelm von Humboldt, trong Gesammelte Werke, đã viết rằng con người căn bản là sống trong một thế giới được ngôn ngữ của anh ta thể hiện. Heidegger cũng lập luận rằng ngôn ngữ không đơn thuần là phương tiện giao tiếp mà là một chiều kích tồn tại của cuộc sống con người.
Luận điểm của chúng tôi gần gũi nhưng không hoàn toàn giống cấp độ yếu của "Giả thuyết Sapir-Whorf ". "Giả thuyết Sapir-Whorf " được biết dưới hai cấp độ: Cấp độ mạnh khẳng định hình ảnh và cách diễn giải thế giới do ngôn ngữ quyết định. Cấp độ yếu cho rằng ngôn ngữ ảnh hưởng đến sự tiếp nhận thế giới.
Trong mọi trường hợp, "Giả thuyết Sapir-Whorf " cho rằng cách thức mã hóa thông tin của một ngôn ngữ quy định thế giới quan của những người nói ngôn ngữ đó. Nhiều người đã tìm cách xác định ảnh hưởng của ngôn ngữ đối với trải nghiệm của chúng ta về thế giới.
Năm 1954, Brown và Lenneberg đã cố gắng kiểm tra xem sự khác biệt về từ chỉ màu sắc trong các ngôn ngữ khác nhau ảnh hưởng ra sao đến sự phân biệt màu sắc của những người nói các thứ tiếng đó.
Các học sinh Việt Nam trò chuyện bằng tiếng Anh với robot NAO từ iSMART tại Diễn đàn Giáo dục Sáng tạo Việt Nam.
Một ví dụ khác: Trong công trình xuất bản năm 1983, Ekkehart Malotki nghiên cứu cách thể hiện thời gian trong ngôn ngữ Hopi và bác bỏ tuyên bố của Whorf rằng tiếng Hopi không có từ cũng như các hình thức và cấu trúc ngữ ngữ pháp mô tả trực tiếp thời gian. Vì thế, người nói tiếng Hopi không có ý niệm hay trực giác về thời gian như là một dòng chảy liên tục của vũ trụ từ quá khứ, qua hiện tại tới tương lai.
Bản chất tư duy của người Việt
Điều chúng tôi quan tâm hơi khác. Theo chúng tôi, đặc điểm ngữ pháp của ngôn ngữ ảnh hưởng chủ yếu đến cách tư duy, mặc dù có thể có hay không có ảnh hưởng, hoặc ảnh hưởng ít hay nhiều, đến sự tiếp nhận thực tại, tức là đối tượng tư duy.
Nói cách khác, chúng tôi không bàn đến ảnh hưởng của ngôn ngữ đến hình ảnh của thế giới, mà chỉ quan tâm đến ảnh hưởng của ngôn ngữ đến cách hành xử của chúng ta khi tiếp cận thế giới. Điều này cũng giống như đặc điểm của phương tiện giao thông có ảnh hưởng quyết định đến cách thức chúng ta tham gia giao thông, chứ không nhất thiết phải ảnh hưởng đến bản thân đối tượng hay địa điểm mà chúng ta muốn tiếp cận.
Ngữ pháp của các ngôn ngữ khác ảnh hưởng đến cách nghĩ của chúng ta như thế nào? Trước hết, căn cứ vào đặc điểm ngữ pháp, chúng ta có thể phân biệt hai loại ngôn ngữ chính, đó là ngôn ngữ tổng hợp, mà đại diện điển hình là các ngôn ngữ Ấn-Âu, như tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Pháp..., và các ngôn ngữ phân tích, điến hình là tiếng Hán và các thứ tiếng Đông Nam Á như tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Khmer....
Ngữ pháp của các thứ tiếng Ấn - Âu có đặc điểm hình thức rất cao, với những ràng buộc logic và hình thức rất gay gắt - dĩ nhiên ở mức độ và sự thể hiện khác nhau ở các ngôn ngữ khác nhau - đối với các thành phần của nó: về giống, số, cách của danh từ; về thời, thể, thức của động từ v.v..., và cùng với chúng là sự phù hợp của số từ, mạo từ, tính từ, đại từ quan hệ...
Âm nhạc là một loại ngôn ngữ, một cách tuyệt vời để thể hiện bản thân, thể hiện những sắc thái cuộc sống, tình cảm mà không cần phải diễn tả bằng lời. Ảnh: WISDOM
Chẳng hạn, hãy so sánh hai câu đơn giản như trong tiếng Nga: ", " (Những cuốn sách mà tôi mua hôm qua rất đẹp) và ",
" (Cuốn sách mà cô ấy mua hôm qua rất đẹp).
Chúng ta nhận thấy rằng, trước khi nói, người nói đã phải xác định đặc điểm và vai trò của từ "Cuốn sách" trong câu để xác định giống (đực, cái, trung), số (nhiều, ít), và cách (danh cách, đối cách, thuộc cách, tặng cách, công cụ cách, giới từ cách) của nó để xác định dạng thức của nó.
Những thông tin này lại quyết định dạng thức của liên từ (, ) và tính từ (, ). Tương tự như vậy, người nói cũng phải xác định các thông tin về chủ ngữ (giống, số) và thời gian để lựa chọn dạng thức của động từ (, ). Do áp lực của logic và hình thức gay gắt như vậy, hành động nói của người phương Tây là sự thực hiện một kế hoạch phát ngôn được chuẩn bị trước.
Ngược lại, trong các phát ngôn tiếng Việt, các từ đơn lập không biến hình. Chức năng ngữ pháp của mỗi từ phụ thuộc gần như hoàn toàn vào vị trí của nó trong câu và tình huống phát ngôn. Người ta luôn luôn có thể bắt đầu một phát ngôn bằng một từ rồi liên tục thêm, gần như không giới hạn, các từ mới vào phát ngôn đó. Mỗi lần thêm như vậy lại làm thay đổi chức năng của các từ đứng trước. Chẳng hạn:
Cô gái đang ăn cơm. ("Đang ăn cơm" là vị ngữ) Cô gái đang ăn cơm rất đẹp. ("Đang ăn cơm" trở thành bổ ngữ; "rất đẹp" là vị ngữ) Cô gái đang ăn cơm rất đẹp nhưng có vẻ buồn. ("rất đẹp nhưng có vẻ buồn" là
vị ngữ). Cô gái đang ăn cơm rất đẹp nhưng có vẻ buồn là em họ người bạn cũ của tôi. ("đang ăn cơm rất đẹp nhưng có vẻ buồn" là bổ ngữ)
Những ví dụ như vậy có thể kéo dài và cho thấy rằng lối nói của người Việt dựa vào tình huống chứ không tuân theo một kế hoạch định trước, nghĩa là có nhiều tính linh hoạt mà ít tính nguyên tắc. Bản chất lối nói của người Việt là tạo ra một phát ngôn thích ứng với hoàn cảnh.
Đặc điểm của tiếng Việt quy định đặc điểm tư duy người Việt: không thiên về logic, tư biện, mà thiên về hành động; không thích kế hoạch, nguyên tắc mà có xu hướng coi trọng sự thích ứng, uyển chuyển; không duy lý mà duy tình.
TS. NGÔ TỰ LẬP (VIỆN QUỐC TẾ PHÁP NGỮ)
Theo enternews
Xu hướng hot nhất năm 2020: "Buông tay để con lớn", cha mẹ cập nhật ngay để nuôi dạy nên những đ.ứa t.rẻ thành công trong tương lai Không phải cứ bảo bọc con trong tay là tốt. Đôi khi buông tay để con tự đi lại là cách để con lớn lên cứng cáp và mạnh mẽ. Nhiều bậc cha mẹ sẵn sàng biến mình thành "người giúp việc", lo lắng cho con từ A đến Z. Con chỉ việc học, còn mọi thứ đã có bố mẹ lo. Cách...