“Giữ lửa” lò đúc lư đồng trăm năm giữa phồn hoa Sài Gòn
Nằm khuất cuối con đường nhỏ Nguyễn Duy Cung (quận Gò Vấp), làng nghề cổ An Hội tồn tại trăm năm vốn nức tiếng là địa chỉ sản xuất lư đồng truyền thống bậc nhất chốn Sài Gòn – Gia Định. Hiếm người nhận ra nơi đây từng là làng nghề cổ vang bóng một thời. Lư đồng An Hội bây giờ chỉ còn hiu hắt 5 lò gồm Ba Cồ, Sáu Bảnh, Hai Thắng, Năm Toàn và Út Kiển.
Còn người mua, bếp còn đỏ lửa
Mang tiếng là bà chủ nhưng khi gặp chúng tôi, Bà Phạm Thị Liên – cơ sở sản xuất lư đồng Ba Cồ – chẳng giấu giếm nổi cái vất vả của nghề với bộ quần áo dấp dính mồ hôi, vẻ mặt đăm chiêu suy tư. Bà vừa phải tiếp khách hàng, ghi đơn hàng, vừa phải quán xuyến mọi công đoạn trong xưởng, từ đắp cốt, bịt sáp, bít đất trấu, đổ đồng đến làm nguội, chạm khắc.
“Khi tôi mới về làm dâu làng nghề An Hội, cả làng có đến hơn 50 hộ làm nghề đúc đồng truyền thống. Ngày đó, lư đồng An Hội nổi tiếng đến mức đi đến đâu cũng thấy người ta đúc lư đồng. Người lớn, trẻ con ai cũng bám riết lấy nghề. Ngày thường nhộn nhịp đã kể, những ngày giáp tết, người người mua mua bán bán, ra ra vào vào khiến cho không khí trong làng lúc nào cũng nhộn nhịp, tấp nập.Vậy mà theo thời gian, nghề cũng mai một đi nhiều. Đến giờ, làng cũng chỉ còn có 5 nhà giữ nghề” – Bà Liên hồi tưởng.
Theo bà Liên, lý do người làng không làm nghề này nữa là vì nghề cực, cần nhiều nhân lực và mặt bằng rộng rãi, sản phẩm bán ra ngày càng khó. Nếu sở hữu mảnh đất hàng trăm mét vuông giữa thành phố đông đúc và đắt đỏ như Sài Gòn, người ta có thể xây nhà cho thuê hoặc kinh doanh kiếm lời sẽ dễ dàng hơn. Nhưng với bà không lẽ nào lại làm vậy: “Cha chồng tôi đặt hết tâm huyết vào nghề này. Chồng tôi cũng đã mất, tôi có trách nhiệm phải giữ nghề truyền thống cho bằng được. Còn người mua lư đồng là tôi còn làm, còn truyền nghề cho con cháu”.
Cơ sở lư đồng của gia đình bà Liên đã tồn tại gần một thế kỷ. Từ khi An Hội nhà nhà làm lư đồng, người người làm lư đồng thì cha chồng bà Liên cũng theo học nghề rồi tự mở xưởng, truyền nghề lại cho ông Ba Cồ là chồng bà Liên. Bà liên “chân ướt chân ráo” về làm dâu cũng tranh thủ học nghề và nối nghề truyền thống này của gia đình chồng đã 25 năm nay. Chỉ vào người con trai cả, bà Liên tự hào khoe: “Thằng bé có khiếu và yêu nghề lắm, nó sẽ là người tiếp theo nối nghiệp của gia đình!”.
Nghề của sự kiên trì, tỉ mỉ
Cơ sở đúc đồng của bà Liên có đến hơn chục người thợ, có những người thợ gắn bó với nghề mấy chục năm ròng, bắt đầu với nghề từ khi còn là một cô bé, cậu bé. Không chỉ có kỹ thuật cao mà người thợ còn phải kiên trì, khéo léo. Mỗi người chỉ tập trung một khâu.
Video đang HOT
Một chiếc lư đồng thành phẩm phải trải qua rất nhiều công đoạn, công phu và tỉ mỉ. Đầu tiên là đắp khuôn ruột bằng đất. Đất phải là đất sét tốt, chịu được nhiệt. Đất sét tuyển chọn kỹ lưỡng này sẽ được người thợ giã nhuyễn trộn với nước cho thật dẻo để dễ dàng nặn theo hình mẫu từ trước. Sau khâu làm khuôn là khâu bịt sáp. Người thợ bít một lớp sáp đèn cầy trộn với sáp ong bít sát khuôn đất. Khâu này đòi hỏi người thợ phải làm đều tay, khéo léo. Bởi lẽ, lớp sáp bám vào khuôn sẽ quyết định độ dày mỏng và hình dáng của lớp đồng thau được đổ vào. Tiếp đến, khuôn lại được chuyển cho người thợ khác đắp một lớp đất trộn với trấu bên ngoài khuôn sáp.
Nếu khâu đắp khuôn đòi hỏi sự công phu, tỉ mỉ thì khâu đổ đồng lại cần sự khéo léo, nguyên tắc hơn hẳn. Khâu này quan trọng nhất đòi hỏi thợ giỏi, nhiều kinh nghiệm vì phải canh thời gian nấu đồng rất kỹ, phải phối hợp ăn ý thợ móc khuôn từ hầm nung và thợ múc đồng từ chảo đổ vào khuôn. Đồng sử dụng phải là đồng thau được người chủ lựa chọn kỹ càng, được người thợ nấu bằng dầu hỏa cho nóng chảy và khéo léo đổ vào khuôn qua hai lỗ nhỏ được tạo dáng từ trước.
Sau khi đồng thau đã trở về dạng rắn, người ta đ.ập bỏ khuôn đất để chuyển sang khâu làm nguội, gồm các công đoạn xả cát để chiếc lư đồng có được những đường cong cơ bản. Những chỗ lư đồng bị khuyết thì được chuyển đến người thợ hàn, hàn lại cho đầy đặn. Sau cùng, lư đồng sẽ được chạm khắc, trang trí hoa văn và đ.ánh bóng.
Bà Liên tâm sự, suốt 25 năm qua theo nghề từ gia đình chồng, khâu nào bà không rành rẽ thì cũng phải biết “chút đỉnh” để có thể chia sẻ công việc cùng những người thợ trong xưởng. Bà tự nhận mình may mắn vì có được những người thợ khéo léo, tâm huyết, có những người gắn bó với công việc trong xưởng từ khi bà mới về làm dâu. Bà và họ cùng đi qua thời gian, cùng trưởng thành với nghề và cùng… già đi nơi xưởng đúc đồng. Hỏi bà có buồn tẻ không? Bà cười rồi nhẹ nhàng hỏi lại: “Có bao giờ cô gái cảm thấy buồn tẻ khi sống chung với một người mình rất yêu chưa?”.
Truyền giữ “lửa” nghề
Lư đồng được tạo ra bằng đôi tay khéo léo của người thợ. Họ không gấp gáp, không vội vã nhưng nhanh nhẹn như cách nói vui của những người thợ lành nghề trong xưởng của bà Liên – “Tự nhiên mình làm nhanh như vậy đó, không biết cách nào hãm cho đôi tay chậm hơn nữa”.
Bà Trinh vốn gắn bó hơn 15 năm với cơ sở đúc đồng Ba Cồ. Công việc của bà có thể xem là nhẹ nhàng nhất trong các công đoạn làm lư đồng – đắp khuôn đất. Bàn tay bà mềm mại cuộn từng miếng đất dẻo, thoăn thoắt đắp thành từng chiếc khuôn đất bao bọc bên ngoài lớp sáp. Công việc đắp đất mà trông cứ thanh thản, nhẹ nhàng như thực hiện một động tác múa. Kế đó, bà Thủy đang tỉ mẩn với công việc “tắm bùn” cho khuôn đất. Đất sét được trộn với tro trấu pha loãng để “tắm” cho khuôn khi đổ đồng nóng chảy vào sẽ không bị rỉ. Bà Thủy chia sẻ: “Tôi gắn bó với nghề cũng đến hơn 15 năm. Ban đầu làm cũng thấy cực lắm. Công đoạn của tôi cũng giống như người nông dân, suốt ngày quen với bùn đất. Ấy vậy mà càng gắn bó lại càng yêu sản phẩm mình đang làm, như kiểu người nông dân quen mùi đất, không xa được làng quê vậy”.
Ông Hoàng Nam hơn 40 t.uổi đời nhưng đã có 23 năm gắn bó với xưởng đúc đồng Ba Cồ. Suốt 23 năm qua, ông làm công việc chạm khắc, trang trí cho những chiếc lư đồng được hoàn thiện. Tay phải ông cầm búa, rắn chắc và khỏe khoắn, tay trái lại thoăn thoắt uyển chuyển di chuyển chiếc đục trên nền lư đồng để tạo thành hình hoa văn mềm mại những rồng phụng, phúc lộc thọ hay cành trúc, cành mai… chẳng cần một nét bút phác thảo. Ông cười hề hề: “Làm quen rồi, giờ muốn gặp sự cố đ.ập búa vào tay cũng khó, chắc phải làm vài xị rượu cho hoa mắt run tay mới được”.
Theo Laodong
Gặp "Vua chạm bạc" chuyên làm đẹp cho các sơn nữ
Cụ là Lý Dào Luồng, sinh năm 1932 tại làng Phùng, xã Thái Học (huyện Nguyên Bình, Cao Bằng) là người làm nghề chạm bạc có thâm niên còn sót lại của người dân tộc Dao t.iền ở vùng này.
Hơn 60 năm trôi qua, bất kể ngày nắng hay mưa, đồng bào dân tộc người Dao t.iền sống ẩn mình trên sơn cốc thuộc tỉnh Cao Bằng, lúc nào cũng bắt gặp hình ảnh một ông lão miệt mài ngồi chạm từng nét khắc lên từng bộ trang sức bằng bạc của khách. Nhờ vào tài chế tác chạm bạc của cụ, biết bao mối tình đã được se duyên, sống với nhau hạnh phúc. Giờ đây, khi t.uổi đã già cụ lại tận tâm truyền dạy cho con cháu để giữ gìn nghề truyền thống.
Cụ là Lý Dào Luồng, sinh năm 1932 tại làng Phùng, xã Thái Học (huyện Nguyên Bình, Cao Bằng) là người làm nghề chạm bạc có thâm niên còn sót lại của người dân tộc Dao t.iền ở vùng này.
Bàn tay tài hoa nơi sơn cốc
Sau gần 1 giờ leo đường núi đá tai mèo, chúng tôi mới đến nhà người thợ bạc tài hoa Lý Dào Luồng. Căn nhà hai tầng khang trang nằm giữa những dãy núi trùng điệp, xung quanh chỉ đá với đá, đẹp như một bức tranh được chạm khắc về thiên nhiên và con người nơi đây. Năm nay đã chạm t.uổi bát tuần nhưng bàn tay của cụ vẫn còn rất nhanh nhạy và đầu óc minh mẫn. Ông lão được mệnh danh là "Vua chạm bạc" có nét mặt hiền lành và đậm chất hoang sơ của núi, được rất nhiều người yêu quý, mến mộ.
Ở vùng này, trang sức bằng bạc là vật làm đẹp cho các sơn nữ người dân tộc thiểu số, là vật không thể thiếu dùng làm của hồi môn cho con gái Dao t.iền, Dao đỏ, H'Mông trước khi về nhà chồng. Đến ngày cưới, cô dâu sẽ diện mình lộng lẫy với những bộ trang sức bằng bạc, như: vòng cổ, vòng tay, xà tích, hoa tai, cúc bạc, nhẫn...
Cụ Lý Dào Luồng (áo đen) và người cháu trai đang trong gian đoạn quan sát học nghề
Cụ Luồng trầm ngâm kể lại: "Tôi sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, việc học hành dang dở, không đến nơi đến chốn vì còn suốt ngày phải giúp bố mẹ lên nương làm việc nuôi các em khôn lớn. Tuy nhiên, từ bé, tôi đã có niềm đam mê với những nét chạm khắc trên trang sức của phụ nữ dân tộc mình mà chính cha tôi chế tác. Mỗi khi rảnh, tôi lại ra ngồi trên mỏm đá trước cửa nhà để xem cha tôi chạm bạc, lâu lâu lại sang nhà các cụ trong làng để so sánh cách làm cũng như trình độ của từng người. Thấy tôi tỏ ra say mê quá nên nhiều người đã hướng dẫn tỉ mỉ các công đoạn, đặc biệt là cha tôi dành tất cả công sức để truyền nghề".
Những ngày đầu khi bước chân vào nghề chạm bạc, cụ Luồng gặp nhiều khó khăn vì chưa xác định được độ chín, nung chảy của bạc, nét chạm vẫn còn thô, chưa được hài hòa. Từng loại sản phẩm lại dùng các kỹ thuật khác nhau, vì vậy phải mất hơn một năm chăm chỉ tập luyện, các sản phẩm trang sức do cụ chạm mới hài hòa, mềm mại theo ý mình. Từ năm 20 t.uổi, chàng thanh niên Lý Dào Luồng bắt đầu sự nghiệp chạm bạc của mình, tài chạm đẹp và tinh xảo đến độ các xưởng chạm bạc thời đó đều dần bị mất khách, thậm chí một số bỏ nghề.
Cụ Luồng tâm sự: "Cách đây nửa thế kỷ, trang sức bằng bạc là vật bất ly thân của người phụ nữ Dao t.iền nên nghề chạm bạc ở miền sơn cước còn thịnh hành và trang sức làm bằng bạc là sở thích của các thiếu nữ dân tộc vùng cao như: Tày, H'Mông, Dao đỏ, Dao t.iền. Để đáp ứng nhu cầu của người dân, người ta thậm chí còn mở cửa hàng chuyên chạm bạc mọc lên ở gần thị trấn, nơi có nhiều dân cư sinh sống".
Thu nhập từ t.iền chạm bạc của cụ Luồng cũng kiếm được kha khá. Các sản phẩm do cụ làm ra đã được tiêu thụ tại các chợ huyện: Nguyên Bình, Hà Quảng, Bảo Lạc, Thông Nông..., bán với giá một đôi vòng cổ là 11 triệu đồng, một đôi vòng tay 3 triệu đồng, một bộ xà tích 5 triệu đồng. Theo cụ Luồng, để làm được những sản phẩm này người thợ lành nghề phải mất gần một tháng trời, t.iền lãi hàng tháng cũng được khoảng 4-6 triệu đồng.
Nhìn đôi bàn tay khéo léo đến độ thành thục của cụ Luồng không ai nghĩ rằng, cụ đã trải qua rất nhiều khó khăn, thử thách mà có lẽ chỉ cụ mới hiểu rõ tất cả. Hơn 60 năm làm nghề, cũng chính cụ mới thấu hiểu được giá trị tinh tế của từng sản phẩm làm ra, trân trọng và tự hào về những trang sức mang bản sắc của dân tộc mình.
Cụ Luồng cho hay: "Điều quan trọng đối với người làm nghề là phải biết gìn giữ, cải tiến phát triển những sản phẩm làm ra ngày càng tinh xảo, đẳng cấp hơn bằng sự khéo léo của bàn tay, sự nhanh nhạy của đôi mắt, sự kiên trì, nhẫn nại của ý chí và sự cảm nhận bằng tâm hồn của người thợ bạc. Số tôi may mắn được cha ông dốc tâm truyền lại nên đến giờ vẫn gắn bó".
Mỗi sản phẩm làm ra với cụ Luồng đầu là một tác phẩm nghệ thuật thực thụ. Cụ coi đó là một thú vui, một cách trải nghiệm cuộc sống và ngắm nhìn dòng đời xuôi ngược từng ngày trôi qua. Và hơn thế nữa, chạm bạc cũng là nét đẹp trong văn hóa của người dân tộc thiểu số nơi vùng cao này. Cụ bảo, chạm bạc cũng cần có năng khiếu nghệ thuật, có trí tưởng tượng của người nghệ sĩ, khéo tay, bay bổng. Đồng thời, người thợ bạc cũng cần phải có cơ bắp và lòng kiên trì. "Chạm những nét, đường cong uốn lượn của bạc theo ý muốn không phải dễ, cũng phải tập kỳ công lắm. Hơn 60 năm làm nghề tôi vẫn chưa thấy hài lòng, đến giờ vẫn phải vừa làm vừa tập thêm", cụ Luồng cười hóm hỉnh.
Gia đình "chạm bạc"
Đã hơn 60 năm trôi qua, những người thợ cùng lứa đã từng bỏ nghề đi làm việc khác hoặc nghỉ hưu, nhưng riêng cụ Luồng với niềm đam mê vẫn kiên trì hằng ngày ngồi chạm những trang sức bằng bạc của khách đã tìm đến nhà đặt hàng. Tuy nhiên, mấy năm nay cụ dành phần lớn thời gian đào tạo, truyền nghề cho hai thế hệ hậu duệ để nối nghiệp mình. Hiện cụ có ba người con trai, ba cháu trai cùng hai người con rể đang nối tiếp nghề do cụ truyền dạy và đã làm ra được các sản phẩm chạm khắc bạc.
Cụ Luồng tự hào chia sẻ: "Tôi bây giờ ngày càng già yếu, phải tranh thủ quãng đời còn lại dốc tâm truyền thụ những kỹ năng, kinh nghiệm cho con cháu để sau này chúng nối nghiệp. Bởi vì, nghề chạm bạc hiện nay ở vùng này đã không còn mấy ai làm nữa nên cũng có khách đặt hàng đều đặn. Truyền nghề cho chúng nó cũng là để góp phần duy trì, phát triển nét văn hóa truyền thống đặc trưng của dân tộc mình nói riêng và các dân tộc thiểu số khác ở vùng này nói chung".
Cha con ông Lý Kìm On quyết theo nghiệp cha, ông
Hiện giờ, kinh tế gia đình cụ Lý Dào Luồng đều do các con cháu cụ đảm nhiệm. Mặc dù ba người con trai đã tách ra ở riêng nhưng đều cùng làm chung nghề chạm bạc. Khi gặp khó khăn tất cả lại xúm nhau lại như một gia đình rồi tìm cách giải quyết, tìm cách phát triển và nâng cao tay nghề. Các công đoạn như đi mua nguyên, nhiên liệu, dụng cụ đồ nghề từ các huyện Thông Nông, Hà Quảng, Thạch An... cho đến quá trình đun, chạm, đan bạc đều được họ phân công nhau rõ ràng. Lợi nhuận thu về được phân chia hợp lý.
Tuy nhiên, hình tượng cụ Luồng luôn luôn được những người con cháu kính trọng, nể phục. Vì vậy, những ý kiến, góp ý của cụ có một trọng lượng nhất định trước khi làm việc gì quan trọng. Bởi đối với con cháu, cụ vừa là một người cha, người ông tôn kính vừa là một người thầy giỏi dang trong giới nghề chạm bạc.
Ông Lý Kìm On (49 t.uổi), người con trai thứ của "vua" chạm bạc cho hay: "Học cái nghề này gian nan lắm chú à. Đã hơn 20 năm làm nghề, đến giờ tôi vẫn còn nhớ những buổi đầu học những kỹ năng, thao tác cơ bản tôi phải mất hàng tháng trời mới quen tay. Từ công đoạn nhóm lò, kéo bễ thổi cho gió vào lò, điều chỉnh nhiệt độ phù hợp, cho đến chạm sản phẩm đều phải tuân thủ tuyệt đối mới có được sản phẩm như ý. Tôi chuyên về công đoạn chạm bạc. Đây là khâu công phu nhất trong quá trình hoàn thành sản phẩm nên cha tôi hay nhắc nhở, hướng dẫn tôi phải thành thục đến độ nhuần nhuyễn. Riêng khâu đan bạc làm dây chuyền là do cho phự nữ trong gia đình đảm nhiệm".
Một đại gia đình sống tách biệt trong thung lũng đá dốc thoai thoải, nhưng ở vùng này đồng bào dân tộc không ai không biết đến cái tên Lý Dào Luồng. Khi chúng tôi chuẩn bị ra về lại gặp được vợ chồng ông Lý Văn Linh đến đặt hàng làm đồ trang sức cho cô con gái chuẩn bị lấy chồng.
Ông Linh bảo: "Gần đến mùa cưới rồi, vợ chồng phải tranh thủ đến đặt hàng trước, nếu không sẽ không kịp vì mùa này mọi năm có rất đông khách tìm đến đại gia đình ông Lý Dào Luồng đặt hàng. Chất lượng sản phẩm ở đây thì khỏi phải nghi ngờ gì nữa, bởi hàng chục năm nay đồng bào dân tộc luôn ưng cái bụng khi các sản phẩm đã qua "xưởng" chạm bạc Lý Dào Luồng".
Chiều muộn, khi những làn gió se lạnh bắt đầu ùa về thung lũng đá, lúc này mái bếp của những người thợ bạc cũng nghi ngút tỏa khói xóa tan không khí cô quạnh, hoang dã nơi thâm sơn cùng cốc này. Bằng sự tài hoa, khéo léo cộng với ý chí và nghị lực kiên cường họ đã vượt qua khó khăn để đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật chạm bạc, thoát khỏi vòng xoáy mưu sinh nơi núi rừng.
Theo ANTD
Bàn giao nhà tình nghĩa cho gia đình thân nhân 3 liệt sĩ Sáng ngày 8/11, gia đình bà Trần Thị Thanh (xóm 9, xã Hưng Lam, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An) - gia đình thân nhân 3 liệt sĩ đã được các tổ chức, đoàn thể bàn giao căn nhà tình nghĩa sau hơn 35 năm sống lênh đênh trên sông nước. Gia đình bà Trần Thị Thanh là nhân vật trong bài viết "Gia...