Giáo dục ngốn hàng tỷ USD vẫn lạc hậu
Sản phẩm của ngành giáo dục là con người, vì vậy không cho phép giáo dục mãi loay hoay thử nghiệm, lạc lối trong lạc hậu.
Theo GS Nguyễn Xuân Hãn, ĐH Quốc gia Hà Nội, đơn cử về sự lạc điệu, lạc hậu của giáo dục nước nhà có thể nhìn vào giáo dục đại học. Số lượng trường ĐH,CĐ hiện nay khoảng 500 trường, dự kiến từ nay đến 2020 chúng ta sẽ có khoảng 576 trường với 4,5 triệu sinh viên. So với năm 1987, số trường ĐH, CĐ tăng gấp 5 lần, số sinh viên tăng 13 lần, nhưng số giảng viên tăng có 3 lần.
Trẻ cần được dạy để tự chủ và phát triển tối đa trí thông minh
Việc mở rộng đại học ồ ạt này không xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, vượt xa sức chịu đựng của nền kinh tế. Tệ hơn, chất lượng đào tạo của ta rất thấp, bằng cấp của đại học VN chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận, đào tạo mà không sử dụng được là sự lãng phí ghê gớm.
- Đất nước và người dân còn nghèo nhưng đã dành những gì tốt nhất để đầu tư cho giáo dục.Vậy mà những năm qua, giáo dục càng đổi mới càng luẩn quẩn?
- GS Nguyễn Xuân Hãn: Về khủng hoảng giáo dục, nhóm giáo sư Harvard đã nói “Sự thất bại của ngành giáo dục không những kìm hãm sự phát triển của quốc gia mà còn duy trì sự bất công bằng trong xã hội”. Đầu tư cho GD là đầu tư cho phát triển, kinh phí cho GD ngày càng tăng. Dự kiến đến năm 2010 ngân sách Nhà nước sẽ chi 20%, nhưng dự kiến này đã thực hiện trước ba năm vào năm 2007 đã chi 20% NSNN, đó là một tỷ lệ lớn.
Đó là chưa kể tới mức đóng góp rất lớn của dân, mức thu của dân vào mức cao nhất thế giới. Trong khi đó đầu tư giáo dục ở Mỹ tính theo GDP là 7,2%, Pháp 6,1%, Nhật 4,7%. Trung Quốc 12%. Cuba vẫn giữ nền giáo dục miễn phí. Năm 1990, ta có 12 triệu học sinh, sinh viên, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục chỉ có 767 tỉ đồng (120 triệu USD theo giá USD) còn dân đóng góp không đáng kể.
Đến năm 2011 số học sinh, sinh viên tăng lên gần hai lần, là 22 triệu em, nhưng ngân sách chi cho giáo dục của Nhà nước và dân đóng góp là xấp xỉ 10% GDP (tổng số 12 tỉ USD, trong đó Nhà nước chi 7 tỷ USD) gấp 100 lần, đó là chưa kể vay của nước ngoài trung bình 100 triệu USD/năm kể từ năm 1993 đến nay.
- Ông từng nhiều lần lên tiếng về việc cần xây dựng chương trình và bộ sách giáo khoa chuẩn, thứ mà ngành giáo dục loay hoay ba chục năm nay. Đó cũng là một sự lãng phí rất lớn?
- GS Nguyễn Xuân Hãn: Chỉ nói riêng về việc viết, in, bán sách giáo khoa, chúng ta đã lãng phí t.iền của một cách khủng khiếp.
Toàn quôc có 55 nhà xuất bản, và 6.200 doanh nghiêp và cơ sở in ân của Nhà nước và tư nhân, với doanh thu 1 tỷ USD/năm, với tôc đô tăng doanh thu trung bình 100 triêu USD đên 150 triêu USD/năm. Riêng giây in sách giáo dục cân khoảng 2 triêu tân/năm, trong nước chỉ cung câp được 40% còn lại 60% phải nhâp ngoại.
Video đang HOT
Theo sô liêu điêu tra ở Cty phát hành sách Hà Nôi năm 2008, có 3.120 sách tham khảo cho tât cả HS phô thông, cụ thê: Lớp 1 có 59 cuôn sách tham khảo; Lớp 2 có 85 cuốn; Lớp 3 có 109 cuốn; Lớp 4 có 147 cuốn; Lớp 5 có 180; Lớp 6 có 202; Lớp 7 có 199; Lớp 8 có 288; Lớp 9 có 357; Lớp 10 có 394 ; Lớp 11 có 442; Lớp 12 có 148.
Chưa kể t.iền của dân bỏ ra, đợt thay sách từ 2002 đến 2011 dự chi 32.000 tỷ, khoảng 2 tỷ USD, gần đây lại có dự kiến thay SGK vào sau năm 2015, với kinh phí 70.000 tỷ đồng – khoảng 3,5 tỷ USD.
Sự lãng phí này nằm ở chỗ, ba chục năm nay chúng ta không cho ra được bộ sách giáo khoa chuẩn. Mỗi năm lại in lại sách giáo khoa, học sinh lại mua sách mới và bỏ sách cũ, lãng phí xã hội rất lớn mà học sinh vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa vẫn không có t.iền để mua sách.
- Cải cách giáo dục là đòi hỏi bức bách của xã hội. Vậy làm sao để cuộc “đổi mới toàn diện lần này” thực sự làm giáo dục tiến bộ và trong sáng hơn?
- GS Nguyễn Xuân Hãn: Có thể nói, thực hiện công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện GD-T là cần thiết nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội một cách căn cơ và bền vững. Tuy nhiên, việc đổi mới cần trên cơ sở đ.ánh giá và nhìn nhận đúng thực trạng, tìm rõ nguyên nhân và có giải pháp vừa cụ thể, vừa tổng quát. Trong đổi mới giáo dục, việc trước tiên cần bảo đảm đủ trường lớp kiên cố với thiết bị dạy học tối thiểu.
Nhanh chóng có sách giáo khoa mới cho phổ thông: các sách khoa học tự nhiên như ở các nước tiên tiến, sách khoa học xã hội bảo đảm tính khoa học, chính xác, đơn giản, thiết thực với phần thực hành tương thích, dạy và học giá trị sống và kỹ năng sống. Chấn chỉnh, củng cố đội ngũ nhà giáo có phẩm chất và tay nghề.
Tôi cho rằng, cần thành lập ủy ban quốc gia về cải cách giáo dục độc lập với Bộ GD-T để thực hiện hai nhiệm vụ: tổ chức tiến hành cuộc tổng điều tra GD trong năm 2013 và tổ chức soạn thảo ề án tổng thể về cải cách giáo dục trong năm 2014 để Chính phủ trình Quốc hội thông qua và tổ chức thực hiện bắt đầu từ năm 2015.
- Thưa giáo sư, làm sao bảo đảm rằng chúng ta sẽ đổi mới giáo dục thành công khi có quá nhiều thách thức ở phía trước?
- GS Nguyễn Xuân Hãn: Đúng là chúng ta có những thách thức rất lớn. Lớn nhất, theo tôi, chính là tư duy đổi mới, tư tưởng, ý thức hệ. Tuy nhiên, chúng ta có thời cơ để đổi mới giáo dục. Hiện nay, giáo dục đang là nỗi bức xúc lớn của người dân, nếu không muốn đất nước chìm đắm mãi trong vòng lạc hậu. Chính những đòi hỏi bức xúc này sẽ thúc cải cách giáo dục toàn diện, triệt để, trở thành mệnh lệnh của cuộc sống.
Theo Lê Minh
Đất Việt
“Phải cải tạo tâm lý sính bằng cấp nặng nề trong xã hội”
Theo GS. Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục, một trong những nguyên nhân dẫn đến bất cập trong nền giáo dục hiện nay là tâm lý sính bằng cấp hiện diện rất nặng nề trong xã hội, kể cả ở cấp quản lý nhà nước.
Nền giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập và mâu thuẫn
Khi đ.ánh giá thực trạng của nền giáo dục hiện nay, GS. Phạm Minh Hạc cho rằng không thể phủ nhận những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong những thập kỷ qua. Nhờ có đường lối giáo dục đúng đắn, truyền thống hiếu học đã được hun đúc qua bề dày lịch sử đất nước và đội ngũ giáo viên có tâm huyết, nền giáo dục Việt Nam hiện nay đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu của toàn dân với đủ mọi cấp học (khoảng hơn 20 triệu người học hàng năm), ở khắp các vùng miền.
Tuy nhiên, hiện nền giáo dục cũng tồn tại nhiều yếu kém, bất cập và lạc hậu, đang đứng trước rất nhiều thách thức cần vượt qua, những mâu thuẫn phải giải quyết. Không khó để chỉ ra bất cập từ sách giáo khoa, cơ cấu hệ thống giáo dục, đội ngũ giáo viên đến chính sách, quản lý... trong giáo dục.
GS. Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
"Đơn cử như chương trình SGK hiện tại, còn mang nặng yếu tố hàn lâm và nhiều khi dài dòng không cần thiết. Nhiều giáo viên tiểu học kêu với tôi là chương trình toán tiểu học quá nặng so với sức chịu đựng của học sinh. Ngược lại, các môn sinh vật, lịch sử ở cấp phổ thông lại được học quá ít. Đó cũng là điều mất cân đối", GS Hạc cho biết.
Một thực trạng đáng buồn khác là tâm lý xã hội hiện "nặng" về học chạy theo bằng cấp hơn là để thu nạp kiến thức. "Đa số học sinh đi học, đi thi đều để kiếm mảnh bằng đại học, bất kể giá trị tấm bằng đó như thế nào. Bởi vậy mới có những con số đáng để suy nghĩ như mới đây, có trường đại học công bố 70% sinh viên ra trường phải đào tạo lại, có trường "tiết lộ" trong 100 sinh viên ra trường thì chỉ 1 em đạt chất lượng, hay ở một hội chợ tuyển dụng lao động, 1000 hồ sơ dự tuyển chỉ lấy được 7 người...", GS Hạc dẫn chứng.
Cần một hệ giải pháp đồng bộ
Để thực hiện công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, theo GS Phạm Minh Hạc, chúng ta cần hệ giải pháp đồng bộ, từ vĩ mô cho đến vi mô, thể hiện ở đường lối chính sách, chế độ của Nhà nước, cho tới tâm lý xã hội ở trong từng gia đình, của mỗi học sinh.Về đường lối, cần phải coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, xác định có giáo dục mới tạo được nền tảng và động lực phát triển xã hội. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh và quan tâm hơn nữa tới chế độ, chính sách dành cho giáo viên, giúp đội ngũ nhà giáo yên tâm cống hiến với sự nghiệp "trồng người". Trang thiết bị dạy học, đặc biệt là SGK, cần được đổi mới, nâng cấp cho phù hợp với tình hình và nhu cầu phát triển của giáo dục.
Một điều quan trọng mà GS Phạm Minh Hạc nhấn mạnh là cần cải tạo tâm lý xã hội, kể cả trong quản lý nhà nước. Suốt nhiều năm qua, nền giáo dục của ta vẫn không thoát ra khỏi tâm lý "Hư văn, khoa cử, quan trường", trong đó có cả phần trách nhiệm của cơ quan quản lý. Chính tâm lý này là nguyên nhân sâu xa dẫn tới thực tế bất lực của giáo dục Việt Nam trong việc phân luồng học sinh suốt những năm qua.
Tâm lý sính bằng cấp đang tồn tại rất nặng nề trong xã hội Việt Nam
Cơ cấu hệ thống giáo dục của Việt Nam vốn được xác định ở thế "kiềng 3 chân" khá hài hòa gồm: Phổ thông, Đại học và dạy nghề. Tuy nhiên, trong nhiều năm trở lại đây, do tâm lý sính bằng cấp ngày càng nặng nề nên nhánh Dạy nghề gần như bị "bỏ quên", dẫn đến thực trạng "thừa thày thiếu thợ", lãng phí t.iền của trong đào tạo, khiến cho "thế chân kiềng" này chỉ còn... hai chân, chênh vênh không bền vững.
Làm thế nào để cải tạo tâm lý?
GS Phạm Minh Hạc cho rằng, để giải quyết "bài toán" cải tạo tâm lý, chúng ta cần phải thực hiện cuộc vận động xã hội mạnh mẽ, với sự vào cuộc của đông đảo thành phần trong xã hội, từ cơ quan quản lý, các nhà khoa học, các phương tiện thông tin đại chúng... Điều cốt yếu là phải làm thực sự và làm một cách kiên trì bởi đây là bài toán không dễ giải.
"Trước tiên là cần giác ngộ hay còn gọi là tư vấn tâm lý, hướng nghiệp từ rất sớm cho học sinh, ngay từ trung học cơ sở. Ở ta hiện nay, có tới hơn 80% học sinh tốt nghiệp THCS học tiếp lên THPT, trong khi chỉ có hơn 10% học nghề hoặc tham gia lao động. Như vậy, vô hình chung gây sức ép quá lớn lên bậc THPT và tạo nên "nút thắt cổ chai" ở kỳ thi đại học", GS Hạc nói về mâu thuẫn trong cơ cấu hệ thống giáo dục Việt Nam.
"Nhìn ra các nước phát triển phương Tây, họ đã thực hiện việc này từ ngay đầu thế kỷ 20. Ví dụ như ở Đức, họ phân luồng, định hướng nghề cho học sinh từ rất sớm, ngay cuối tiểu học và đầu cấp hai. Ở Pháp, có hội đồng ở từng quận, xã để hướng nghiệp cho học sinh, được làm ngay từ lớp 7. Học sinh được định hướng nghề sớm giúp hệ thống đào tạo vận động hài hòa, có sự liên thông giữa các hệ đào tạo và xã hội tận dụng được mọi nguồn lực".
"Đây là vấn đề cần làm đồng bộ, nhưng vai trò quyết định là ở quản lý nhà nước, cần tổ chức hướng nghiệp cho học sinh, vượt qua tâm lý học để đi thi, từ đó phát triển hệ thống giáo dục theo hướng cải tạo tâm lý", nguyên Bộ trưởng Phạm Minh Hạc đ.ánh giá.
Mạnh Hải
Theo dân trí
Tiến sĩ ơi là tiến sĩ ơi! Thời gian vừa qua dư luận xôn xao về những trường hợp một số trường đại học trên thế giới vào liên kết làm ăn ở Việt Nam. Đây là các trường đại học không lấy mục tiêu đào tạo là chính mà chủ yếu bán bằng. Đối với các nước khác, những tấm bằng này chủ yếu là để trang sức, nhưng...