Đôn đốc thu, giảm nợ BHXH, BHYT
Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam vừa ban hành các Công văn gửi BHXH các tỉnh, thành phố về việc tăng cường các giải pháp thực hiện, giảm số t.iền chậm đóng BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) và phát triển người tham gia BHXH, BHYT những tháng cuối năm 2022.
Đại diện các đơn vị nợ đóng BHXH (bên trái) ký nhận quyết định công bố thanh tra của Thanh tra thành phố Hà Nội. Ảnh: HH.
Thời gian qua, BHXH Việt Nam đã có nhiều văn bản chỉ đạo về thực hiện các giải pháp phát triển người tham gia, đôn đốc thu, giảm số t.iền chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN. Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, công chức, viên chức, người lao động (NLĐ) trong toàn ngành BHXH Việt Nam có nhiều nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức trong giai đoạn “nước rút” nhằm phấn đấu về đích với những kết quả tích cực.
Tuy nhiên, hiện số người tham gia BHXH, BHYT, BHTN vẫn chưa đạt được như kỳ vọng; số t.iền chậm đóng BHXH, BHYT ở một số địa phương chưa giảm sâu. Do đó, để phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu nhiệm vụ được giao năm 2022, trong đó quyết tâm giảm số t.iền chậm đóng xuống mức thấp nhất, BHXH Việt Nam yêu cầu Giám đốc BHXH các tỉnh, thành tiếp tục tham mưu Hội đồng nhân dân (HĐND) cấp tỉnh, cấp huyện đưa vào Nghị quyết hằng năm về chỉ tiêu phát triển BHXH, BHYT; đề xuất hỗ trợ thêm cho người tham gia BHXH tự nguyện, BHYT tự đóng có hoàn cảnh khó khăn, người mới thoát nghèo, nông thôn mới, người dân sinh sống tại các xã mới thoát khỏi vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Với các địa phương đã có Nghị quyết của HĐND về hỗ trợ thêm mức đóng cho người tham gia BHYT, kịp thời lập danh sách người tham gia để cấp thẻ BHYT.
Các địa phương quyết liệt rà soát, khai thác, phát triển người tham gia BHXH, BHYT, BHTN từ dữ liệu do cơ quan Thuế và các cơ quan liên quan; đẩy mạnh thanh tra chuyên ngành; phân công cán bộ bám sát, phối hợp với các đơn vị liên quan để tăng cường các giải pháp đôn đốc, vận động người tham gia BHYT hết hạn sử dụng thẻ BHYT nhưng chưa tham gia lại; vận động, phấn đấu có ít nhất 70% người thuộc hộ gia đình nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình và 100% người thuộc hộ cận nghèo, học sinh, sinh viên, nhất là sinh viên từ năm thứ hai trở đi tham gia BHYT.
BHXH các tỉnh, thành tiếp tục đề xuất UBND tỉnh trình HĐND hỗ trợ ngân sách địa phương hoặc kêu gọi doanh nghiệp (DN), cá nhân, mạnh thường quân hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT cho người dân có hoàn cảnh khó khăn.
Video đang HOT
BHXH tỉnh, thành thường xuyên báo cáo Tỉnh ủy, UBND tỉnh về tình trạng chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN của các doanh nghiệp (DN) trên địa bàn để lãnh đạo, chỉ đạo, yêu cầu các DN chấp hành nghiêm việc đóng BHXH, BHYT, BHTN đầy đủ, kịp thời theo quy định; Đẩy mạnh hoạt động của Tổ thu nợ liên ngành cấp tỉnh, cấp huyện, tổ chức các buổi làm việc với DN chậm đóng; phân công cán bộ bám sát tình hình hoạt động của DN để đôn đốc đóng đủ, không để phát sinh số t.iền chậm đóng mới.
BHXH các tỉnh, thành tăng cường thanh tra chuyên ngành đối với DN chậm đóng từ 03 tháng trở lên, kiên quyết xử phạt vi phạm hành chính, ban hành Quyết định cưỡng chế thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền đã được quy định; Phối hợp chặt chẽ, kịp thời với cơ quan Công an trong việc điều tra, xử lý đối với DN cố tình trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho NLĐ và các ngành chức năng để đề xuất UBND tỉnh các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, thu hồi số t.iền chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN tại các DN nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ; Tăng cường công tác tuyên truyền, đối thoại bằng các hình thức linh hoạt, phù hợp để nâng cao nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN đối với chủ sử dụng lao động và NLĐ; phê phán các hành vi vi phạm trốn đóng, chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Việc các đơn vị sử dụng lao động, DN để nợ đọng BHXH, BHYT với số t.iền lớn đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích an sinh hợp pháp, chính đáng của NLĐ. Do đó, nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ, thời gian qua, ngành BHXH Việt Nam đã nỗ lực triển khai nhiều giải pháp cụ thể, linh hoạt, phù hợp, như: tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác tổ chức, thực hiện chính sách BHXH, BHYT; thành lập các Đoàn công tác của BHXH Việt Nam do Tổng Giám đốc và các Phó Tổng Giám đốc làm Trưởng đoàn làm việc với 63 BHXH tỉnh để đôn đốc, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác thu, thu nợ, phát triển người tham gia BHXH, BHYT, BHTN và công tác khám, chữa bệnh BHYT…
Những mức phạt mới về lao động, BHXH từ 2022 cần lưu ý
Chính phủ đã ban hành Nghị định 12/2022/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội (BHXH) thay thế Nghị định 28/2020/NĐ-CP với nhiều mức phạt tăng hơn trước hoặc trước không quy định.
Lao động dệt may sử dụng nhiều lao động. Ảnh: TTXVN.
Đây là những mức phạt mà doanh nghiệp cần lưu ý. Cụ thể:
-Hành vi quấy rối t.ình d.ục tại nơi làm việc nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Mức xử phạt từ 15 - 30 triệu đồng (Khoản 3 Điều 11). Trước không quy định mức phạt.
- Buộc người lao động thực hiện hợp đồng lao động để trả nợ cho người sử dụng lao động mức phạt 50 - 75 triệu đồng (Điểm b khoản 4 Điều 11). Trước đó, Nghị định 28/2020 không quy định mức xử phạt.
-Không thông báo bằng văn bản cho người lao động về việc chấm dứt hợp đồng lao động khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định của Bộ luật Lao động, trừ trường hợp quy định tại các khoản 4, 5, 6, 7 và 8 Điều 34 của Bộ luật Lao động. Mức phạt 1 triệu - 3 triệu đồng (Khoản 1 Điều 12). Trước đó, Nghị định 28/2020 không quy định mức xử phạt.
- Lợi dụng danh nghĩa dạy nghề, tập nghề để trục lợi hoặc bóc lột sức lao động hoặc dụ dỗ, ép buộc người học nghề, người tập nghề vào hoạt động trái pháp luật. Mức phạt từ 50 - 75 triệu đồng (Điểm a khoản 2 Điều 14). Trước đó bị phạt từ 20 - 25 triệu đồng.
- Tuyển người vào tập nghề để làm việc cho mình với thời hạn tập nghề quá 3 tháng. Mức phạt từ 50 - 75 triệu đồng (Điểm a khoản 2 Điều 14). Trước đó Nghị định 28/2020 không quy định mức xử phạt.
- Không công bố công khai tại nơi làm việc trước khi thực hiện thang lương, bảng lương; mức lao động; quy chế thưởng. Mức phạt từ 5 - 10 triệu đồng (Điểm a khoản 1 Điều 17). Trước mức phạt này chỉ 2 - 5 triệu đồng (Điểm a khoản 1 điều 16).
- Không thông báo nội quy lao động đến toàn bộ người lao động hoặc không niêm yết những nội dung chính của nội quy lao động ở những nơi cần thiết tại nơi làm việc phạt từ 1 - 3 triệu đồng theo Khoản 1 Điều 19. Trước mức phạt này là 500.000 đồng - 1 triệu đồng.
- Dùng hình thức phạt t.iền hoặc cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động bị phạt từ 20 - 40 triệu đồng (Điểm b khoản 3 Điều 19). Trước mức phạt này là 10 - 15 triệu đồng.
- Xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động đang trong thời gian sau đây: nghỉ ốm đau; nghỉ điều dưỡng; nghỉ việc được sự đồng ý của người sử dụng lao động; đang bị tạm giữ; đang bị tạm giam; đang chờ kết quả của cơ quan có thẩm quyền điều tra, xác minh và kết luận đối với hành vi vi phạm được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 125 của Bộ luật Lao động. Mức phạt 20 - 40 triệu đồng (Điểm đ Khoản 3 Điều 19). Trước đó theo Nghị định 28/2020 không có quy định xử phạt.
- Không bảo đảm thực hiện bình đẳng giới và các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới theo một trong các trường hợp sau: tuyển dụng; bố trí; sắp xếp việc làm; đào tạo; thời giờ làm việc; thời giờ nghỉ ngơi; t.iền lương; các chế độ khác. Mức xử phạt từ 5 - 10 triệu đồng (Điểm a khoản 1 điều 28). Trước đó theo Nghị định 28/2020 không có quy định xử phạt.
- Ngược đãi, quấy rối t.ình d.ục, c.ưỡng b.ức lao động, hoặc dùng vũ lực đối với người lao động là người giúp việc gia đình nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Mức xử phạt 50 - 75 triệu đồng (Khoản 4 Điều 30). Trước đó theo Nghị định 28/2020 không có quy định xử phạt.
- Không thực hiện thủ tục xác nhận về việc đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động để người lao động hoàn thiện hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định. Mức xử phạt từ 1 - 3 triệu đồng/người lao động bị vi phạm nhưng tối đa là 75 triệu đồng (Khoản 3 Điều 39). Trước mức xử phạt từ 500.000 - 01 triệu đồng.
- Làm giả, làm sai lệch nội dung hồ sơ hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp để trục lợi chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mỗi hồ sơ hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp làm giả, làm sai lệch nội dung. Mức xử phạt từ 10 - 20 triệu đồng/hồ sơ vi phạm nhưng tối đa là 75 triệu đồng (Khoản 2 Điều 40). Trước mức xử phạt từ 5 - 10 triệu đồng.
Hà Nội: Không 'khoanh' nợ bảo hiểm đối với doanh nghiệp Theo Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội, tính đến hết tháng 9/2022, toàn thành phố còn gần 79.000 đơn vị, doanh nghiệp nợ đóng bảo hiểm xã hội của gần 1 triệu người lao động với số t.iền hơn 5.101 tỷ đồng. Người lao động đến làm thủ tục bảo hiểm thất nghiệp tại Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà...