“Đói” hợp đồng, giá gạo xuất khẩu có xu hướng giảm
Nhiều doanh nghiệp cho biết, thị trường gạo thế giới trầm lắng và ít hợp đồng được ký kết đã ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những tháng đầu năm 2013.
Trước tình hình này, Hiệp hội Lương thực Việt Nam ( VFA) mới đây đã công bố giá xuất khẩu gạo theo hướng mở để doanh nghiệp linh hoạt áp dụng.
Theo đó, từ ngày 27.12, gạo loại 35% tấm (đóng bao 50 kg/bao, giao tàu và theo tiêu chuẩn chất lượng gạo xuất khẩu Việt Nam) xuất khẩu giá FOB tối thiểu là 370 USD/tấn. Còn chênh lệch giá giữa các loại gạo do các doanh nghiệp tự tính toán và quyết định.
Nhu cầu giảm khiến xuất khẩu gạo gặp khó – Ảnh: Trung Hiếu
Hiện giá xuất khẩu gạo 5% tấm là 405-410 USD/tấn gạo 15% tấm là 390 USD/tấn. Mức giá này thấp hơn nhiều so với giá xuất khẩu bình quân 465 USD/tấn mà VFA công bố ở tháng 11.2012.
Ông Nguyễn Thành Long – Giám đốc điều hành Công ty TNHH Gạo Việt – cho biết xuất khẩu gạo đầu năm 2013 cũng sẽ giống như đầu năm 2012, đó là việc Ấn Độ và Pakistan tăng nguồn cung xuất khẩu cộng với việc bán giá thấp để cạnh tranh với gạo Việt Nam. Ngoài ra, Thái Lan với lượng tồn kho khoảng 15 triệu tấn, nếu họ “xả” ào ạt thì xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng bị “vạ lây”.
Video đang HOT
Trong khi đó, khác với những năm trước, xuất khẩu gạo của Việt Nam đầu năm 2013 không có nhiều hợp đồng tập trung. Do đó, muốn đẩy mạnh xuất khẩu, doanh nghiệp gạo phải tìm kiếm những hợp đồng thương mại.
Hiện nay, thị trường mà nhiều nước xuất khẩu gạo nhắm đến là Trung Quốc. Mới đây, Trung Quốc đã công bố đấu thầu nhập khẩu 2,6 triệu tấn gạo. Tuy nhiên, nước này lại không bao giờ tiết lộ lượng gạo thiếu hụt cũng như lượng nhập khẩu.
Theo một doanh nghiệp xuất khẩu gạo, thường vào thời điểm giá xuất khẩu xuống thấp, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh đặt hàng.
Lúc đó, doanh nghiệp trong nước trước áp lực tồn kho cùng với sắp vào vụ thu hoạch Đông Xuân buộc phải ký kết hợp đồng với giá thấp.
“Thời điểm này hết sức khó khăn đối với doanh nghiệp gạo. Năm hết, tết đến, cùng với áp lực trả vay ngân hàng nên dù biết giá thấp nhưng doanh nghiệp cũng phải chấp nhận bán để xả hàng”, ông Long nói.
Tại cuộc họp xuất khẩu gạo gần đây, Chủ tịch VFA Trương Thanh Phong nhận định với diễn biến thị trường thì xuất khẩu gạo trong quý 1/2013 sẽ hết sức khó khăn. Xuất khẩu gạo nếu có khởi sắc cũng phải sau thời điểm tháng 4.2013.
Theo TNO
Thủy điện Việt Nam đi "ngược chiều" thế giới - Kỳ 4: Chỉ phát điện, không phòng lũ
Việc phát triển hệ thống thủy điện của Việt Nam hiện nay có nhiều lỗ hổng. Nhiều công trình không có dung tích phòng lũ và không có báo cáo đán.h giá tác động môi trường (ĐGTĐMT) trên toàn hệ thống.
Một nghiên cứu chuyên đề về "Đán.h giá tác động xả lũ của thủy điện Sông Ba Hạ đến hạ lưu sông Ba" của Mạng lưới sông ngòi Việt Nam (VRN) cho biết: Thực tế thủy điện Sông Ba Hạ là công trình đơn mục tiêu, mặc dù trong nhiệm vụ có nêu đây là công trình tham gia xả lũ cho hạ lưu (Bộ Công thương 2009). Do không có dung tích phòng lũ nên khả năng hỗ trợ phòng lũ hạ lưu của công trình chủ yếu phụ thuộc vào chủ quan của người vận hành hồ chứa (Công ty CP thủy điện Sông Ba Hạ).
Thủy điện Sông Ba Hạ, một trong nhiều công trình thủy điện không có dung tích phòng lũ - Ảnh: Đức Huy
Trong trận lũ 11.2009, kết quả nghiên cứu cho thấy do thủy điện Sông Ba Hạ không có dung tích phòng lũ nên khi lũ lớn về đầy hồ chứa (phát điện) đã đ.e dọ.a đến chính bản thân công trình. Toàn bộ lượng lũ đều được xả qua công trình và một phần lượng nước trong hồ cũng phải xả để bảo đảm an toàn. Kết quả làm lũ đến hạ lưu tăng khoảng 10% so với lũ tự nhiên.
Dung tích phòng lũ là phần hồ chứa được để trống trước mùa lũ. Khi có lũ lớn, nước vượt giới hạn dung tích hồ chứa thì lượng nước trên sẽ được cho chảy vào phần hồ phòng lũ nhằm hạn chế tác hại của lũ.
Còn theo một báo cáo khác của Sở NN-PTNT Quảng Nam, quy hoạch tổng thể dự án 10 thủy điện bậc thang của hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn có tổng dung tích phòng lũ là 1,07 tỉ m3 nước. Tuy nhiên hầu hết các thủy điện này có dung tích phòng lũ rất nhỏ so với dung tích toàn bộ công trình. Cụ thể như tổng dung tích của 3 hồ thủy điện Sông Tranh 2, A Vương, Đắk Mi 4 khoảng 1,5 tỉ m3 nước. Nhưng thực tế dung tích phòng lũ của 3 hồ này chỉ đạt 125 triệu m3. Vì vậy mà các hồ chứa này không có chức năng phòng lũ.
Bà Ngụy Thị Khanh, Giám đốc Trung tâm Sáng tạo xanh, cán bộ vận động chính sách của VRN nói: "Nhiều dự án thủy điện (DATĐ) khi xin cấp phép thì ghi trong hồ sơ, mục đích là phát điện và phòng lũ. Nhưng khi được cấp phép thì các nhà đầu tư (NĐT) đã làm lơ mục đích phòng lũ mà chỉ đơn thuần là phát điện. Đi thực tế các công trình thủy điện ở miền Trung chúng tôi đã thấy rất nhiều trường hợp như vậy. Đây là điều rất nguy hiểm vì người dân cứ nghĩ là các đậ.p thủy điện này có khả năng phòng lũ. Nó tạo ra một tâm lý an toàn giả tạo cho người dân. Nên khi có lũ hay sự cố xảy ra thì vùng tổn thương sẽ càng lớn và thiệt hại sẽ cũng nặng nề hơn. Chính phủ có chỉ đạo các bộ xây dựng quy định về quy chế vận hành liên hồ chứa. Nhưng thực tế là các hồ không có dung tích để chứa thì làm sao nó có thể chứa được".
Theo TS Đào Trọng Tứ, Giám đốc Trung tâm phát triển bền vững tài nguyên nước và thích nghi biến đổi khí hậu (CEWAREC), trong quy hoạch, thủy điện trung bình trở lên thì có phần dung tích phòng lũ. Nhưng để tiết kiệm đa phần các NĐT đều không đưa nó vào trong thiết kế, thi công.
Lỗ hổng
Theo TS Lê Anh Tuấn, Trường ĐH Cần Thơ, có nhiều lỗ hổng trong các báo cáo ĐGTĐMT của các đậ.p thủy điện ở Việt Nam. Lỗ hổng lớn nhất là các báo cáo này không có đán.h giá tác động tích lũy (Cumulative Impact Assessment - CIA) khi có ít nhất hai hoặc nhiều hơn công trình hay DA tác động lên một hệ sinh thái. Chỉ riêng trên dòng chính sông Đồng Nai, người ta có thể đếm được 14 công trình thủy điện cho một đoạn sông chừng 420 km. Mật độ thủy điện như vậy là khá dày đặc. Khi thực hiện ĐGTĐMT cho một DATĐ lên một hệ sinh thái, một nguồn tài nguyên thiên nhiên hay một thành tố xã hội phải xem xét trên và dưới DATĐ này còn có các công trình nào khác mà sự tác động của chúng khi cùng vận hành tạo ra các hiệu ứng "cộng hưởng" hay tạo ra một chuỗi tác động tiêu cực theo dạng "domino" cho môi trường lưu vực và dân sinh.
Theo ông Trịnh Lê Nguyên, bản thân việc ĐGTĐMT hiện nay vẫn mang tính chất hình thức. "Có thể thấy ví dụ điển hình ở những DA có sự quan tâm của dư luận chẳng hạn như Đồng Nai 6 và 6A... có quá nhiều vấn đề khi chúng ta nhìn sâu vào đó. Thế nhưng hầu hết các DA khác không được theo dõi và giám sát chặt chẽ như thế. Không một hệ thống tự nhiên nào có thể tự điều chỉnh, tái cân bằng khi bị băm nát, phá vỡ và phân mảnh dưới tác động của phát triển thủy điện như hiện nay. Sự phản hồi cực đoan của hệ sinh thái sẽ dẫn đến những hệ lụy xấu cho môi trường và con người như chúng ta đã thấy ở nhiều trường hợp. Các báo cáo đán.h giá về thủy điện vẫn chủ yếu tập trung vào những mặt tích cực của thủy điện. Thế nhưng không thể nói phải ưu tiên an ninh năng lượng cao hơn an ninh lương thực, ổn định xã hội cũng như an ninh môi trường được".
TS Đào Trọng Tứ nhận định: "Hiện nay với quy định NĐT phải lập ĐGTĐMT, trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt thì theo tôi, ta sẽ rất khó có được một ĐGTĐMT theo đúng nghĩa để giúp nhà nước nhận định và ra những quyết định đúng đắn. Với quy trình này ai cũng thấy rằng, chẳng thể có công trình nào mà NĐT (cả tư nhân và nhà nước) lại bỏ ra rất nhiều tiề.n để chứng minh rằng công trình hay DA của mình không đáng đầu tư. Tôi kiến nghị nhà nước phải quản lý và điều hành hoạt động lập ĐGTĐMT, nhưng phải có quỹ cho công tác này từ đóng góp của các NĐT và nhà nước. Sự tham gia thực sự của cộng đồng chịu tác động và các bên liên quan phải là quy chế bắt buộc... Ngoài ra những tiêu chí, tiêu chuẩn cho cho ĐGTĐMT cần phải được điều chỉnh và bổ sung".
"Việt Nam dường như đang thiếu một quy trình cho việc đán.h giá tác động tích lũy bên cạnh các báo cáo ĐGTĐMT. Chính phủ Việt Nam đã từng khuyến cáo DATĐ Xayabury ở Lào phải được đán.h giá trên cơ sở tổng thể tất cả các bậc thang thủy điện đến các vùng hạ lưu chứ không thể tách riêng ra từng DA để đán.h giá. Không cớ gì mà chúng ta khuyến cáo cho phía nước ngoài mà bỏ qua các khuyến cáo như vậy cho các DATĐ trên một dòng sông trong nước", TS Lê Anh Tuấn kết luận.
Theo TNO
Đầu năm 2013: Lo gạo ế Mặc dù từ đầu năm đến nay, nước ta đã xuất khẩu (XK) gần 6,5 triệu tấn gạo, song thời điểm này, các doanh nghiệp XK gạo trong nước lại đang lo thiếu hợp đồng XK trong thời gian tới. Tăng về lượng, giảm giá trị Tính đến cuối tháng 10, số lượng gạo XK theo đăng ký hợp đồng đạt hơn 7,65...