Đ.ánh vần ’sách đá’ cổ Sa Pa
Những bí ẩn vẫn bao phủ những nét khắc trên những tảng đá rải rác ở bãi đá cổ Sa Pa. Mọi lý giải vẫn chỉ là giả thiết. Bí ẩn vẫn là bí ẩn.
Những phiến đá cổ Sa Pa như những trang sách đang lưu và mang quá khứ đến với hiện tại và tương lai. Công việc “đọc sách đá cổ” cho đời sau vẫn còn đang tiếp tục và cuốn hút sự quan tâm của nhiều người.
Đá cổ có hình khắc ở Sa Pa.
Một phát hiện thu hút nhiều sự quan tâm
Năm 1925, Victor Goloubew, nhà khảo cổ học (người Pháp gốc Nga) của Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO), viết bài thông báo đầu tiên về hơn 30 tảng đá mang những nét khắc khó hiểu, nằm rải rác ven suối Hoa trong thung lũng Mường Hoa (Sa Pa) trên tạp chí của Viện. Đến nay số tảng đá có khắc hoa văn được phát hiện tại khu vực này đã tới trên 200 tảng. Những nét khắc tưởng như nguệch ngoạc trên sườn đá đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và đông đảo khách du lịch trong suốt nhiều năm qua. Chúng đã được coi như một tài sản quý cần được bảo vệ của Sa Pa, Lào Cai và cả với văn hóa nói chung.
Trong khoảng thời gian khá dài đó cũng đã có nhiều cuộc nghiên cứu của các nhà khảo cổ học, dân tộc học, sử học, văn hóa học, mỹ thuật, địa chất học, trắc địa bản đồ viễn thám, v.v… Các mẫu vật, thác bản, ảnh chụp… cũng đã được đưa về Hà Nội để nghiên cứu bằng những phương tiện khoa học hiện đại. Nhưng bãi đá cổ vẫn trầm mặc trong sương mù Sa Pa và “sương mù khoa học” vẫn bao phủ những câu trả lời, làm nóng lòng (và nóng cả đầu) các nhà khoa học…
Mọi lý giải vẫn chỉ là giả thiết
Mường Hoa xưa gồm 6 thôn bản, nay bao trùm địa phận hành chính của các xã: Lao Chải, Tả Van, Hầu Thào, Sử Pán, Thanh Kim (huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai). Cư dân ở đây có người Giáy, người Xá Phó, người Tày Khao (vốn là người Thái trắng), người HMông đến muộn hơn. Người Lô Lô, người Hà Nhì, người La Hủ đã ở đây rồi lại chuyển đi nơi khác.
Hoa được đặt tên cho mường (mường Hoa), cho suối (suối Hoa). Hoa được đặt tên cho ngòi (ngòi Hoa), cho bàn đá có hoa (hoa Sứ Phán, hoa Thạch bàn). Hoa là biểu hiện chính của nơi có những hòn đá khắc hoa văn. Khu vực tập trung nhất những tảng đá mang hình khắc khá tiêu biểu từ xóm Lý Lao Chải qua bản Pho, xã Hầu Thào đến bản Phùng, xã Sử Pán. Các hòn lớn khắc nhiều hình, hòn nhỏ khắc những họa tiết đơn lẻ. Bề mặt đá đã mềm qua phong hóa, chạm khắc dễ dàng là chất liệu sẵn có trong thiên nhiên của những “nghệ sĩ” xưa.
Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đã tìm được truyền thuyết dân gian xưa của đồng bào ở đây nhắc đến một nạn hồng thủy làm ngập chìm muôn vật. Có hai anh em trai gái tìm đường qua đây nhưng không đi được mà hóa thành đá lớn bên bờ suối Hoa. Đời sau gọi là đá Bố và đá Mẹ – như một hình tượng về nguồn gốc sinh sôi của cư dân vùng ngòi Hoa. Nay còn thấy trên hai tảng đá Bố và đá Mẹ có hình khắc mô phỏng có thể làm người xem mường tượng – liên tưởng – chắp nối tới những nét vẽ bản đồ khu vực suối mường Hoa. Thậm chí gần đây còn có nhà nghiên cứu trẻ áp vào và so sánh với bản đồ của Google và cũng thấy những nét tương đồng (?)…
Nhiều lần, nhiều nhóm nghiên cứu đã tới đo, vẽ bãi đá cổ và những hình vẽ trên những tảng đá. Nhìn và phân loại tổng quát, những đường nét, hình khắc trên đá Sa Pa có thể chia thành các loại:
- Loại hình thắng đồ như những bản đồ sơ khai, mang tính ký hiệu và ước lệ. Các tảng đá có hình khắc lọai này chiếm số lượng nhiều nhất.
Video đang HOT
- Loại khắc hình người với những nét sơ giản, có nhiều biểu tượng p.hồn t.hực thường thấy trong tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp.
- Loại khắc hình công cụ sinh họat hàng ngày như cối xay, bánh xe, guồng nước… cùng với hình nhà, có khi khắc riêng, có khi điểm xuyết vào các hình thắng đồ.
- Loại hình chữ khắc thường ở trên những hòn đá riêng biệt hoặc ở một góc riêng biệt trên hòn đá có khắc hình. Độ nông sâu của nét khắc hình và nét khắc chữ khác nhau chứng tỏ những lớp thời gian văn hóa khác nhau đã phủ lên đá gốc.
Có người căn cứ vào những dấu tích văn hóa Sơn Vi tìm thấy ở Lào Cai, Cam Đường (cách Sa Pa khoảng 20 km); nhiều đồ đồng Đông Sơn tìm thấy ở các vùng lân cận như Cam Đường, Bát Xát, Than Uyên mà cho rằng vùng núi Hoàng Liên Sơn là địa bàn cư trú của nhiều thế hệ người khôn ngoan (homosapiens). Họ đã cư trú ở đây lâu đời và liên tục, kéo dài cho đến những thế hệ người Việt cổ và “có thể họ là chủ nhân của những hình khắc phức tạp trên những hòn đá” và “niên đại của các hình khắc trùng với niên đại của văn hóa Đông Sơn”. Tuy nhiên ý kiến này chỉ được để dưới dạng tồn nghi, vì việc giám định niên đại của những nét khắc là công việc gần như không thể, không giống như việc xác định t.uổi của những hòn đá và những hiện vật khác.
Có thể đọc được chữ đá cổ Sa Pa?
Một tảng đá ở triền núi thuộc thôn Lý Lao Chải, gần Hầu Thào mang những hình chữ khắc đã làm tốn nhiều giấy mực của các nhà khoa học. Nhìn những nét móc cong xen giữa những chấm rỗ của đá, người ta dễ liên tưởng đến kiểu chữ Thái. Nét khắc cũng đã mờ lẫn cùng rêu phong. Phải áp giấy dó lên và rập cho nổi nét khắc mới dễ nhìn hơn.
Năm 2007, họa sĩ Nguyễn Văn Chiến, nhà nghiên cứu mỹ thuật (Trường Đại học Mỹ thuật), nhìn những nét khắc trên tảng đá bằng con mắt của một nhà hình họa lại thấy nó giống với mẫu tự Latin. Kết quả này đã được ông báo cáo trong Hội nghị Thông báo những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2007. Hoàn toàn không bị định kiến về niên đại những nét khắc, nhìn theo chiều mọc lên của lá cây quanh tảng đá, thuận chiều nghiêng chếch lên của tảng đá theo hướng mặt trời, ông Chiến đã tìm ra chiều để “đ.ánh vần” được những dòng chữ trên phiến đá cổ.
Chữ khắc trên tảng đá không theo chiều dọc mà thuận theo chiều ngang. Chữ khắc theo hàng lối nhưng nét còn khá nguệch ngoạc. Đọc từ trên xuống dưới: dòng 1: Lên chỗ đá; dòng 2: bó; dòng 3: mẹ mà; dòng 4: ăn nằm; dòng 5: không rõ 2 chữ đầu nhưng rõ 4 nét sổ thẳng như dấu !. Đọc toàn bộ nội dung “chữ” trên tảng đá là: “Lên chỗ đá bó mẹ mà ăn nằm…!!!!”. Những nội dung này cũng không xa lắm với tín ngưỡng p.hồn t.hực và cũng có thể hiểu được từ góc nhìn văn hóa dân gian.
Những gì suy – đọc được trên tảng đá làm ông Chiến sửng sốt. Có vẻ như niên đại của những nét khắc này không còn bị đẩy xa lên đến vài ngàn năm trước nếu những chữ ông Chiến đọc được đúng là những gì chủ nhân nó muốn viết lại cho đời sau.
“Lên chỗ đá bó mẹ mà ăn nằm !!!”. (Ảnh HS Nguyễn Văn Chiến cung cấp).
Bí ẩn vẫn là bí ẩn…
Sau thông báo của họa sĩ Nguyễn Văn Chiến, còn nhiều nhà nghiên cứu tiếp tục đi điền dã Mường Hoa để quan sát và phát hiện thêm về những khối đá, tiếp tục cố gắng giải mã những hình khắc mang nhiều bí ẩn. Về tảng đá đã được ông Chiến “đọc” chữ, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng: Có thể có nhiều lớp văn hóa phủ lên bãi đá cổ Sa Pa và lớp “chữ quốc ngữ” có thể là lớp phủ cuối cùng (?). Ông Chiến cũng chỉ mới đọc được “chữ” trên một hòn đá và đến nay vẫn chưa có “chữ” nào được “đọc” thêm.
Nhưng vẫn còn một khả năng khác (có vẻ cao hơn): Chủ nhân của những nét khắc đó không hề biết chữ quốc ngữ. Họ khắc những nét hoa văn theo tâm tưởng của họ nhưng chúng ta lại “dịch” chúng theo / bằng chữ quốc ngữ? Nếu như vậy, câu chuyện lại chuyển sang một hướng khác với rất nhiều câu hỏi mới và những câu trả lời vẫn còn để ngỏ. Điều này càng làm tăng thêm giá trị của những tảng đá mang hoa văn trên mình ở Sa Pa nhưng cũng đòi hỏi sự dày công nghiên cứu liên ngành và đa ngành hơn nữa.
Ngữ Thiên
Theo daidoanket.vn
Tín ngưỡng thờ rái cá ở Nam Bộ xuất phát cuộc bôn đào của Nguyễn Ánh?
Ở Nam Bộ, truyền thuyết, huyền thoại thờ rái cá gắn với cuộc bôn đào của Nguyễn Ánh trong sự truy lùng gắt gao của quân Tây Sơn.
Rái cá là loài động vật có vú, sống dưới nước thuộc họ chồn. Rái cá đào hang làm tổ ở bờ sông, biển, trong các hốc đá, hố cây hoặc sử dụng các hang đá có sẵn. Ở Nam Bộ ngày xưa, rái cá thường có mặt tại một số vùng biển và sông rạch, chúng tìm bắt các loài cá hoặc cua, ốc.. làm thức ăn. Hiện nay, tại một số đình làng Nam Bộ có thờ rái cá với nhiều danh xưng như "Lang Thát Đại Tướng Quân", "Thần Lang Lại", "Lang Lại nhị đại tướng quân", hay "Đông nam sát hải Lang Lại nhị đại tướng quân"... Đây là vị thủy thần phù hộ cho ngư dân ven sông, biển.
Tín ngưỡng thờ rái cá thực ra đã có nguồn gốc từ lâu đời. Như tại các làng ven biển ở Ninh Bình, ngư dân có tục thờ rái cá với danh xưng "Lang Thát Đại Tướng Quân" với truyền thuyết về nguồn gốc của Hoàng đế Đinh Tiên Hoàng của triều Đinh là con của rái cá. Hoặc theo như trong quyển Ngọc Thu cổ tích - thần phả làng Ngọc Thu thì rái cá có công canh giữ xác Đại Càn thánh nương (Thái hậu nhà Tống bị c.hết trên biển) lúc tấp vào cửa Càn ( Quỳnh Lưu, Nghệ An) khiến dân địa phương cảm thấy linh dị nên chôn cất và lập miếu thờ.
Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ rái cá tại một số đình làng Nam bộ lại có nguồn gốc và danh xưng hoàn toàn khác. Ở Nam Bộ, có rất nhiều truyền thuyết, huyền thoại gắn với cuộc bôn đào của Nguyễn Ánh. Trong quá trình trốn chạy sự truy lùng gắt gao của quân Tây Sơn, nhiều khi Nguyễn Ánh lâm vào thế tuyệt vọng, phải cầu khẩn sự che chở của các thế lực tâm linh. Có khi lại nhờ bầy rắn hay con cá, con rùa báo điềm có quân Tây Sơn chặn phía trước mà may mắn thoát nạn. Do vậy mà Nguyễn Ánh đã phong tặng cho các linh vật có công cứu Chúa để đền ơn. Chẳng hạn cá sấu được phong là "Tân Ngạc Ngư Long", cá Ông là "Nam Hải Đại Tướng Quân". Và trường hợp loài rái cá cũng có lai lịch tương tự. Theo truyền thuyết dân gian và trong các tài liệu xưa còn lưu lại thì việc thờ rái cá tại các đình làng Nam Bộ bắt nguồn từ những giai thoại sau:
Tranh thờ "Lang Thát Đại Tướng Quân" tại đình làng Nam Bộ.
"Một hôm, Nguyễn Ánh thất trận bị quân Tây Sơn truy đuổi chạy bộ dọc theo ven biển, phía sau quan quân Tây Sơn đuổi theo bén gót. Nguyễn Ánh ngửa mặt lên trời than:
- Nếu Hoàng Thiên còn tựa dòng họ Nguyễn nầy thì xin dung rủi làm sao cho quân Tây Sơn lạc lối.
Khấn xong, vua, tôi lại tiếp tục chạy một đỗi xa rồi ngồi xuống bãi biển chờ c.hết, vì quá mệt mỏi .
Chờ cả buổi không thấy địch đến, ai nấy đều lộ vẻ vui mừng vừa thoát khỏi nạn. Nguyễn Vương quay lại đường cũ xem vì sao quân Tây Sơn không đuổi theo. Ngài thấy toàn là dấu chân của một giống vật gì đã dẫm nát cả một vùng làm mất hẳn dấu chân của ngài. Còn đang tìm hiểu thì một bầy rái từ dưới biển nhô lên chạy vào bãi cát , đôi tay ôm cá, tôm. Nguyễn Vương liền phán rằng:
- Có lẽ nhờ bầy rái cá này dẫm mất dấu chân nên quân Tây Sơn mới bị lạc. Tuy nó là giống vật nhưng có công cứu chúa. Vậy để đáp lại công ơn, Trẫm sắc phong cho chúng là: Lang Lại đại tướng quân!
Lạ thay, bầy rái cá hình như nghe hiểu nên tỏ vẻ mừng rỡ, múa nhảy lung tung một hồi mới kéo nhau lặn xuống biển cả. Nguyễn Vương và thuộc hạ tiếp tục lên đường".
Sắc gia phong thần Rái Cá năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) tại Công Thần miếu Vĩnh Long.
Một truyền thuyết khác: " Một lần, thuyền chúa Nguyễn trong rạch sắp ra đến vịnh Xiêm La, bỗng có hai con rái cá lội ngang chặn mũi thuyền lại. Xem thấy có điều bất thường, Nguyễn Chúa muốn quay lại, nhưng không còn kịp. Quả nhiên gặp một đội thuyền chiến của Tây Sơn chặn đ.ánh. Đoàn thủy binh của Nguyễn Ánh sắp bại đến nơi thì may sao trời nổi giông gió dữ dội, làm đắm các chiến thuyền của Tây Sơn, chúa Nguyễn nhờ đó thoát nạn.... sau khi lên ngôi Gia Long hoàng đế đã xuống lệnh phong cho hai chú rái cá kia là " Lang Thát nhị đại tướng quân"
Do có công lao cứu chúa, giống rái cá được phong thần và một số đình ở Nam bộ có cả sắc phong của triều Nguyễn cho thần rái cá. Lang Thát là một vị thủy thần nên có một số nơi còn kết hợp vị thần này với Đại Càn quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương thành vị thần có danh hiệu Đại Càn quốc gia Nam Hải Lang Thát nhị dại tướng quân.
Ở vùng T.iền Giang, thần rái cá được thờ nhiều nơi. Trong các đình Kiểng Phước (Gò Công), Điều Hòa (Mỹ Tho), Tân Hương (Châu Thành-Tiền Giang)... đều có sắc phong cho thần rái cá. Nơi thờ vị thần này thường là một cái miễu nhỏ với một bài vị đề chữ Lang Thát hoặc Lang Lại Đại Tướng Quân. Thức cúng cho vị thần này đặc biệt phải có món cá hoặc các loại cua, ốc...những thức mà loài rái cá hay ăn.
Miếu thờ Lang Lại ở đình Tân Hội, xã Tân Hội, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
Đình Tân Hương (T.iền Giang) thần rái cá được phong là " Dũng mẫn đông nam sát hải nhị đại tướng quân" được 4 lần cấp sắc phong: Ngày 27 tháng 11 năm Thiệu Trị thứ năm (1845) gia phong hai chữ Nghiêm dực. Ngày 26 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ năm (1845) lại được gia phong thêm hai chữ Hoằng nghị. Ngày 8 tháng 11 năm Tự Đức thứ ba (1850) gia phong thêm hai chữ Trừng trạm. Và đến ngày 29 tháng 11 năm Tự Đức thứ Năm (1852) thần có danh hiệu là : Đông nam sát hải Dũng mẫn Nghiêm dực Hoằng nghị Trừng trạm chi thần".
Công thần miếu ở Vĩnh Long (trong dân gian gọi là Miếu Hội Đồng) cũng lưu giữ được 2 sắc phong thần rái cá. Hai tờ sắc này đều được cấp vào ngày mồng 10 tháng chạp năm Thiệu Trị thứ 7 (1847).
Tại đình Tân Hội thuộc xã Tân Hội, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp vẫn còn bảo lưu tín ngưỡng thờ Lang Lại. Qua thời gian, chiến tranh tàn phá, miếu cũ không còn, nhân dân đã xây lại miếu mới bằng xi măng và bài vị chữ Hán xưa đã được thay bằng chữ Quốc ngữ. Vùng Tân Hội là một khu vực đặc biệt nằm ở ngã ba sông với ba ngôi đình nổi tiếng linh thiêng và cũng là khu vực có nghề khai thác và đ.ánh bắt thủy sản trên sông rất phát triển vào thời xưa. Tín ngưỡng thờ thần Lang Lại được tiếp nhận và trong tâm thức dân gian, vị thủy thần này thường phò hộ cho người dân theo nghề chài lưới được tôm cá dồi dào, ít gặp sóng to gió lớn nên đối với ngư dân đây là một vị phúc thần.
Đối với người dân đi khai hoang mở cõi, sự có mặt của rái cá là một điềm tốt và nơi nào có rái cá sinh sống thì có thể định cư lập nghiệp. Việc thờ Lang Lại tướng quân là một dấu ấn về tín ngưỡng của cư dân Nam bộ về một vị thủy thần phù hộ ngư dân trên sông nước. Đây cũng là một dấu tích về thuở chúa Nguyễn Ánh chạy Tây Sơn trên mảnh đất phương Nam.
Theo news.zing.vn
Những người đàn ông Ấn Độ thân thiện này không ngờ là chiến binh chuyên lấy đầu người Những người già của bộ lạc Konyak thoạt nhìn trông khá thân thiện, tốt bụng nhưng những hình xăm trên mặt hé lộ một sự thật đen tối. Họ từng là những chiến binh săn đầu người với những dấu hiệu biểu tượng cho sự t.àn s.át. Chỉ những người già của bộ lạc Konyak mới có hình xăm trên cơ thể và...