Cuộc đào thoát từ ‘địa ngục trần gian’
Những ngày vừa qua, người dân xã Tiên Kỳ, huyện miền núi Tân Kỳ (Nghệ An) vẫn chưa hết xôn xao về câu chuyện của anh Lô Văn Thìn (sinh năm 1964) trở về từ một bãi vàng ở chốn rừng sâu thuộc huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam. Theo lời kể, nơi đây có thể xem là chốn “địa ngục trần gian”.
Phước Sơn “đi dễ khó về”
Chúng tôi tìm đến khi anh Thìn trở về đã được hơn 2 tuần lễ, nhưng dường như sự mệt mỏi, hốt hoảng, xen lẫn sự hoang mang vẫn còn hiện hữu trên nét mặt. Lời tâm sự đầu tiên khi biết chúng tôi đến tìm hiểu về chuyến “hồi hương” của anh là: “Thật may mắn! Cuối cùng cũng được trở về với anh em xóm làng, với vợ dại con thơ. Thế mà nhiều lúc nghĩ rằng sẽ vĩnh viễn nằm lại nơi rừng thiêng nước độc”.
Khi lấy lại được sự bình tâm, anh Thìn kể về hành trình đến bãi vàng Phước Sơn và cuộc “đào thoát” có một không hai của anh. Một phần do còn ít nhiều hốt hoảng, phần khác do kỹ năng diễn đạt hạn chế nên dòng tâm sự của anh thường xuyên bị ngắt quãng, thiếu sự mạch lạc.
Niền vui của bé Lô Văn Phong (con trai út của anh Thìn) khi bố trở về
Vợ chồng anh có 5 đứa con, hầu hết còn thơ dại. Cuộc sống gia đình hết sức khó khăn, bởi thu nhập không có gì hơn ngoài mấy sào ruộng khoán và mấy sào mía nguyên liệu. Đầu tháng 3/2011, tức là sau tết Nguyên Đán khoảng một tháng, vợ chồng Nguyễn Văn Hoan và Lương Thị Oanh ở xóm 11, cùng xã tìm đến nhà rủ anh vào Quảng Nam nhặt đá sỏi, xây dựng đường giao thông với mức thu nhập khá cao, và cho ứng trước 1 triệu đồng.
Nghe bùi tai, nghĩ rằng tranh thủ lúc nông nhàn đi kiếm ít t.iền để trang trải cuộc sống, anh Thìn cùng 2 người khác ở gần nhà rời quê hương lên đường theo Nguyễn Văn Hoan đi đến “miền đất hứa”.
Chuyến xe chạy theo hướng Nam, trên xe ngoài 3 người thuộc xã Tiên Kỳ còn có thêm 7 người khác ở xã Đồng Văn (cũng thuộc huyện Tân Kỳ) cùng đi. Xe chạy một ngày, một đêm rồi dừng lại ăn cơm trưa tại Thị trấn Khâm Đức, huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Lúc này, anh Thìn và mọi người được bàn giao cho một người chủ khác. Ông chủ mới này nói: “Ai có nhu cầu gọi điện về cho gia đình thì gọi ngay đi, kẻo vào đó không có sóng đâu”. Sau đó, điện thoại của tất cả mọi người bị ông chủ mới này tịch thu.
Hôm sau, mọi người được chở bằng xe máy theo hướng vào rừng. Đi mãi. Đi mãi. Cuối cùng anh và những người cùng đi được đưa đến một bãi khai thác vàng nằm trong chốn rừng sâu chứ không phải đi nhặt đá, làm đường giao thông như lời hứa hẹn ban đầu.
Tại bãi vàng, anh Thìn tính được khoảng trên 100 người tham gia đào đãi vàng. Có những người có “thâm niên” làm ở đây từ 5- 6 năm, còn hầu hết là 2-3 năm. Anh và những người cùng làm ở đây phải làm việc quần quật suốt ngày đêm, kể cả những ngày mưa gió (ở đây thường có mưa lớn).
Chỗ nghỉ được quây bằng những tấm bạt khoảng 7m2 ngay giữa bãi vàng. Bị cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài, lại làm việc trong điều kiện cực khổ, t.iền lương không được nhận, nhiều người đã bỏ trốn. Nhưng do rừng núi hoang vu, lại không thông thạo địa hình nên hầu hết các cuộc “đào thoát” đều không thành công.
Khi biết có người bỏ trốn, bọn chủ bãi vàng liền tung người ra các hướng để tìm kiếm, vây bắt. Bắt được ai, chúng đưa ra đ.ánh đ.ập hết sức d.ã m.an để người đó không bao giờ dám nuôi ý định chạy trốn và mặt khác để “thị uy”, ngăn đe những người còn lại.
Có những người bị đ.ánh đ.ập, đ.âm c.hém làm tay chân, mặt mũi l.ở l.oét, sưng vù nhưng vẫn phải ra bãi làm vàng…
Trước tình cảnh đó, anh Lô Văn Thìn và Lô Văn Khoa (sinh năm 1981, thường trú ở bản Cha Hìa, xã Xiêng My, huyện Tương Dương, Nghệ An) bàn cách trốn thoát. Theo kế hoạch đã vạch, vào lúc đêm khuya, hai người lặng lẽ rời khỏi lán và đi thẳng vào rừng.
Đi 3 ngày 3 đêm, khi mệt leo lên cây ngủ, khi đói dùng dao mang theo chặt gốc cây khủa để ăn. Đến một cái lán hoang của những người khai thác gỗ bỏ lại, hai người mệt lả.
Video đang HOT
Vẻ mặt lo âu, thất vọng của bà Nguyễn Thị Thu
Rất may, ở đó sót lại một ít muối cất kỹ trong cái bao bóng, anh Khoa lấy muối hòa nước suối để hai người cùng uống. Lát sau thấy tỉnh hẳn, hai người lại dắt dìu nhau lên đường. Lúc còn ở nhà, anh Thìn là tay thợ săn khá cừ khôi nên có kinh nghiệm trong việc tìm đường đi ở chốn rừng sâu. Nhờ đó, anh tìm thấy được con đường dẫn đến một bản của người Cơ tu. Đói lả, chân dưới đất như quay cuồng, hai người vào nhà dân xin cơm ăn.
Người đàn ông chủ nhà có tên là Sơn Xru nấu cho hai con người lỡ đường một bữa cơm đạm bạc, rồi xin xe tải chạy công trình thủy điện ra thị trấn Khâm Đức. Rồi anh Thìn và anh Khoa tiếp tục dò hỏi và cuốc bộ một ngày đường để đến được một bến xe nằm trên Quốc lộ 1A (không nhớ rõ là bến xe nào). Hai anh lên một chiếc xe chạy đường dài Bắc- Nam, chủ xe là một người Hà Nội.
Chủ xe cho anh Thìn mượn điện thoại gọi về báo cho gia đình biết tin và chuẩn bị t.iền, xuống chờ sẵn ở ngã ba Diễn Châu (nơi giao nhau giữa Quốc lộ 1A và 7A ở Nghệ An) để thanh toán t.iền xe và đưa anh và anh Khoa về nhà.
Xe về đến Diễn Châu lúc 3h sáng ngày 21/4/2011. Trong tình trạng đau nặng, trí não không thật tỉnh táo, anh Khoa phải theo về nhà anh Thìn ở chừng 10 ngày. Đến ngày 3/5/2011, anh Thìn mới tìm cách thông báo được cho gia đình anh Khoa đến đưa về chăm sóc.
Lúc viết bài này, chúng tôi liên lạc được với anh Lô Văn Kim, anh trai của anh Khoa và được biết so với ngày mới về thì anh Khoa đã khỏe lên chút ít. Nhưng trí não vẫn chưa trở lại bình thường, nhiều lúc tỏ ra hoang mang, lo sợ, khắp người còn đau ê ẩm do bị đ.ánh đ.ập…
Mẹ ngóng tin con vợ ngóng chồng
Việc anh Lô Văn Thìn và Lô Văn Khoa trốn thoát từ một bãi vàng ở huyện Phước Sơn (Quảng Nam) và trở về đoàn tụ cùng gia đình, vợ con là một sự may mắn. Nhưng theo như cách miêu tả của anh Thìn, hẳn có không ít người vợ, người mẹ đang ngày đêm dõi về “miền đất hứa” để ngóng tin chồng, tin con…
Ánh mắt khẩn cầu khi nghĩ về đứa con trai của bà Lô Thị Nhất
Chúng tôi ghé thăm nhà ông Lô Văn Long (SN 1960) và anh Lô Văn Vinh (SN 1985), hai người cùng xóm và cùng đi một chuyến với anh Lô Văn Thìn. Anh Thìn cho biết, trước khi anh trốn về, anh có gặp ông Long.
Lúc ấy ông vừa bị đ.ánh đ.ập dã man, tay chân sưng phù. Nguyên nhân là do ông Long t.uổi đã cao, sức đã yếu không làm được nhiều, bọn chủ bãi vàng tìm cách gây sự và cho bọn tay chân đ.ánh đ.ập, giờ đây không rõ sống c.hết ra sao.
Nghe đến đây, bà Nguyễn Thị Thu, vợ ông Long òa khóc nức nở. Bà nói trong tiếng nấc: “Nói đi vào trong đó nhặt đá sỏi, làm đường giao thông nhưng đã gần 2 tháng rồi mà không gọi điện về, gọi thì không liên lạc được. Ông ấy lấy đâu sức lực nữa mà đào đãi vàng hả trời…”.
Nhìn khắp căn nhà nhỏ, xiêu vẹo của chủ nhân, hầu như không có vật gì đáng giá. Bà Thu lại nức nở: “Cũng tại nhà nghèo quá, con cái lại đông, có thằng đang theo học Đại học Kinh tế Huế nên ông ấy phải làm việc vất vả k.iếm t.iền nuôi con ăn học…”.
Thấy chúng tôi tìm đến nhà và hỏi thăm chuyện con trai mình, bà Lô Thị Nhất không ngăn được những dòng nước mắt.
Bà kể: “Thằng Vinh nhà này rất chăm chỉ, chịu khó làm ăn, vì nó biết bố mẹ rất nghèo, anh em lại đông. Đầu năm nó nghe người ta rủ vào Đà Nẵng hay Quảng Nam chi đó làm đường giao thông, thu nhập cao. Nó đi cùng đợt với chú Thìn, chú Long. Từ ngày đi đến giờ, nó chưa một lần gọi điện về nhà. Từ bữa chú Thìn về kể chuyện trong đó, tôi luôn mất ăn mất ngủ, không biết thằng Vinh sống c.hết thế nào”.
Nói rồi, bà Nhất nắm chặt lấy tay chúng tôi, ánh mắt như cầu khẩn, giọng vỡ òa: “Xin các anh tìm cách giúp đỡ và cứu con tôi với…!”.
Cần sớm vào cuộc
Theo lời anh Thìn, ở chỗ bãi vàng anh làm, người Nghệ An khá đông, chủ yếu là người dân tộc thiểu số thuộc các huyện miền núi cao như Quế Phong, Qùy Hợp, Tương Dương, Con Cuông, Tân Kỳ (riêng xã Tiên Kỳ, huyện Tân Kỳ có đến 9 người).
Và hầu hết những người thuộc xã Tiên Kỳ vào đây đều do vợ chồng Nguyễn Văn Hoan rủ rê. Làm việc với Công an xã Tiên Kỳ, anh Nguyễn Văn Đào (Trưởng Công an xã) cho biết, từ đầu năm 2011 đến nay, toàn xã có hơn 200 người đến đăng ký tạm vắng, nhưng không có ai xin làm thủ tục tạm trú tại tỉnh Quảng Nam.
Anh Lô Văn Thìn chưa hết hoang mang khi kể lại những ngày bị đày đọa ở bãi vàng Phước Sơn
Điều này có nghĩa là những người ở địa phương đi làm ăn ở Quảng Nam đều không làm thủ tục đăng ký tạm trú, tạm vắng. Hỏi về việc việc một số người địa phương bị lừa vào các bãi vàng trốn thoát trở về, nhận được câu trả lời: “Chúng tôi có nghe nói, nhưng không thấy có ai đến trình báo hoặc làm đơn tố cáo”.
Còn anh La Thanh Hải (Phó Công an xã) cho biết, theo kết quả thăm dò của anh, toàn xã Tiên Kỳ có khoảng 19 người đang làm thuê ở Đà Nẵng và Quảng Nam, có những gia đình có đến 2 người (hai anh em hoặc hai bố con) cùng đi.
Hiện gia đình vẫn chưa có có cách nào để liên lạc được với họ. Và điều đáng lưu ý là hầu hết những người này đều có trình độ thấp, nếu không muốn nói là thất học, kinh tế gia đình hết sức khó khăn nên dễ bị lừa gạt.
Tiến hành xác minh vợ chồng Nguyễn Văn Hoan và Lương Thị Oanh, được biết hai đối tượng này thường trú tại xóm 11, xã Tiên Kỳ. Cả hai thường xuyên đi làm ăn xa, ít tham gia sinh hoạt ở địa phương. Người dân cho biết thêm, từ ngày nghe tin anh Lô Văn Thìn trốn về từ huyện Phước Sơn (Quảng Nam), vợ chồng Nguyễn Văn Hoan rời khỏi nhà và đi đâu không ai hay.
Người dân mảnh đất Tiên Kỳ đang mong mỏi các cơ quan chức năng sớm vào cuộc để nghiêm trị những kẻ l.ừa đ.ảo, giúp đỡ những con người đáng thương thoát khỏi cảnh bị lừa gạt và đầy đọa chốn “địa ngục trần gian”.
Theo VietNamNet
Tình yêu cổ tích của vợ chồng người hát rong
Trong một lần đi chăn trâu, chàng bị trúng bom còn sót lại từ thời chiến tranh, bị mù mắt, cụt tay. Cánh cửa cuộc đời tưởng như khép lại, nhưng tình yêu với cô gái mù lòa đã cứu rỗi cả hai, họ xây dựng hạnh phúc bằng những ngày tháng hát rong.
Sinh năm 1970 ở xóm nghèo Khe Thần, xã Nghĩa Bình (Tân Kỳ, Nghệ An), t.uổi thơ của Vi Văn Ngữ là những tháng ngày cùng chúng bạn đi chăn trâu, cắt cỏ bên những thửa ruộng bị bom cày phá. Năm 1986, trong một lần đi chăn trâu, Ngữ đụng phải quả bom còn sót lại từ thời chiến tranh. Mạng sống giữ được nhưng đôi mắt của anh bị mù hoàn toàn, cánh tay phải bị đứt lìa.
Là chàng trai khỏe mạnh, nhạy cảm, bỗng nhiên trở thành người tàn phế, Vi Văn Ngữ vô cùng bi quan. Càng lớn lên những âm thanh như tiếng chim trên cành cây sau nhà, tiếng xe lọc xọc trên đường làng, tiếng cười đùa của lũ bạn giờ tan học, tiếng khỏa nước dưới sông... vô tình dội vào thính giác càng làm Ngữ thêm đau đớn. Trong 6 năm ròng, căn nhà của Ngữ luôn đóng chặt cửa.
Một mình đối diện với 4 bức tường im lặng và bóng tối, Ngữ lần bước chân cô độc rồi vấp phải cây đàn ghi ta mà nhóm thanh niên trong xóm vẫn thường đến chơi để lại ở góc nhà. Những âm thanh bật lên đ.ánh thức trong anh một khát vọng mơ hồ. Run rẩy ôm cây đàn vào ngực, bàn tay còn lại lần tìm những sợi dây...
Với cây đàn và chiếc loa cũ kỹ, tiếng hát của vợ chồng anh Ngữ - chị Hương đã có mặt ở khắp các ngõ ngách của thành phố Vinh. Ảnh: Nguyên Khoa.
Ngữ quyết tâm tập đàn, 5 ngón tay bật m.áu. Khi nốt nhạc đầu tiên thành hình hài, anh hạnh phúc đến rơi nước mắt. Nó thắp cho anh niềm hy vọng, niềm tin vào cuộc sống. Ngày lại ngày, tiếng đàn, lời ca đã ấm lên trong căn nhà mấy năm đóng cửa, bạn bè cũng mừng vui kéo đến chia sẻ với nghị lực và sự quyết tâm của anh.
Các bạn động viên Ngữ gia nhập Hội Người mù của huyện Tân Kỳ. "Ở đó, tôi nhận ra không ít người bất hạnh hơn mình. Những bài ca vì thế không chỉ sầu não thở than mà đã có thêm những khúc rộn rã", Ngữ chia sẻ. Anh được nhiều người biết đến hơn sau khi được Hội Người mù Nghệ An cử đi thi và đoạt huy chương vàng cuộc thi "Tiếng hát từ trái tim" do Hội Người mù Việt Nam tổ chức năm 2000.
Sau đó 2 năm, anh lại đoạt huy chương vàng trong Liên hoan nghệ thuật quần chúng do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội tổ chức. "Được đi thi rồi được g.iải t.hưởng, tôi hạnh phúc vô cùng bởi công sức rèn luyện, phấn đấu của mình đã được ghi nhận. Từ đó tôi bắt đầu ấp ủ mình sẽ lao động, sẽ đứng lên và kiếm sống bằng chính khả năng của mình", anh tâm sự.
Đến với âm nhạc, Ngữ tìm thấy niềm vui sống, nhưng trái tim trai trẻ chưa một lần dám nghĩ đến tình yêu, đến mái nhà rộn tiếng cười con trẻ. Trong lần xuống tỉnh để tập văn nghệ cho hội diễn, anh đã gặp Nguyễn Thị Hương, cô giáo dạy chữ Brai, giọng ca của Hội Người mù huyện Nghi Lộc.
Sinh ra trong gia đình có người cha bị mù, chị Hương và em trai đã bị mờ mắt bẩm sinh. Đồng cảnh ngộ, lại mến nhau qua tiếng đàn giọng hát, hai trái tim ấy đã cùng hòa nhịp. Khi thưa chuyện với gia đình đôi bên về việc kết hôn, cả hai đã gặp phải sự phản đối dữ dội. Gia đình anh Ngữ muốn con trai sẽ lấy cô gái sáng mắt để đỡ đần, bù đắp cho nhau trong cuộc sống. Mẹ chị Hương đã trải qua một cuộc sống khổ cực khi có chồng bị mù bẩm sinh nên không muốn gả con gái mình cho người mù lòa.
Buổi tối, họ lại trở về với hạnh phúc giản dị trong căn nhà nhỏ xíu. Ảnh: Nguyên Khoa.
Nhưng tình yêu, sự chân thành của hai thanh niên khiếm thị đã vượt qua tất thảy những cản ngăn, cấm đoán. Năm 2001, đám cưới của họ do Hội Người mù Nghệ An tổ chức đã diễn ra trong nỗi mừng tủi của anh em, bạn bè và đặc biệt là những người cùng cảnh ngộ. Lấy nhau về, không có nơi ở, hai vợ chồng dắt díu đến Hội Người mù huyện Tân Kỳ xin tá túc ở một góc nhỏ trong trụ sở hội. Hàng ngày, họ dẫn nhau đi lang thang bán tăm, bán đũa.
Năm 2003, được mẹ vợ chia cho mảnh đất nhỏ ở xóm 5 xã Nghi Liên, hai vợ chồng đã dựng ngôi nhà nhỏ bằng t.iền đóng góp của hội viên Hội Người mù và bà con chòm xóm. Hai đứa cô con gái xinh xẻo cũng lần lượt ra đời trong nỗi lo thấp thỏm liệu chúng có bị mù di truyền như chị Hương hay không? Nhưng thật may mắn, cả hai đứa đều khoẻ mạnh và ngoan ngoãn.
Gánh nặng mưu sinh từ đây càng thêm đè nặng. Việc bán tăm, bán đũa ngày càng khó khăn. Nhiều đêm hai vợ chồng thức trắng cùng những tiếng thở dài. Làm sao để sống, để nuôi con, để trả ơn bao nhiêu người cùng cảnh ngộ đã góp từng đồng t.iền thấm đẫm mồ hôi, nước mắt tạo dựng cho mình một mái nhà?
"Khi bế tắc nhất thì cũng là lúc tôi nghĩ đến cây đàn ghita. Nó đã đem đến niềm vui sống cho tôi rồi mang lại mối lương duyên và một lần nữa tôi lại nhờ đến nó để mưu sinh", anh Ngữ chia sẻ. Sau khi bàn tính, vợ chồng anh quyết định sắm bộ loa máy cũ và chiếc micro để đi hát rong kiếm sống.
Nơi đó có hai đứa con gái nhỏ khỏe mạnh, nguồn hạnh phúc của đôi vợ chồng mù lòa. Ảnh: Nguyên Khoa.
Hàng ngày, từ tờ mờ sáng, họ lại mang theo cây đàn, bộ loa máy cũ, dắt nhau vào trung tâm thành phố Vinh hát rong. Hôm thì đi bộ, hôm thì chị chở anh bằng chiếc xe đạp cà tàng. Mặc dù mắt bị mờ nhưng nhờ sự luyện tập, chị Hương có thể đi lại, làm việc nhờ chút ánh sáng lờ mờ còn lại trên đôi mắt và cảm giác từ đôi tai.
Nhớ lại lần đầu tiên cất tiếng hát trên vỉa hè, hai anh chị đều nghẹn lời khi vô tình nghe được lời mắng nhiếc của những người qua đường. "Thỉnh thoảng gặp một vài nhóm thanh niên trong quán cà phê, sau khi nghe hát đã yêu cầu chủ quán đuổi chúng tôi đi. Một số lại nói móc mỉa khiến vợ chồng tôi đau lòng đến phát khóc, muốn đ.ập ngay cây đàn và bỏ về. Nhưng nghĩ đến hai con đang chờ mang gạo về, hai vợ chồng lại động viên nhau đi tiếp", chị Hương tâm sự.
"Nào ai muốn mưu sinh bằng nghề hát rong, nhưng mình phải sống, phải lo cho con cái, mẹ già... Vả lại, mình lao động bằng sức lực của mình, và cũng vất vả, khó khăn lắm chứ. May mắn cho chúng tôi là những lời mắng nhiếc ấy chỉ là thiểu số", anh Ngữ tiếp lời vợ.
Với quyết tâm như vậy, những bài ca, tiếng hát đã cất lên ở các quán cà phê sáng, quán cơm trưa. Vỉa hè thành phố Vinh trở thành chốn trú chân, cây đàn cùng bộ loa cũ kỹ trở thành nơi gửi gắm ước mơ, nơi chia sẻ hạnh phúc và cũng là "cần câu cơm" của đôi vợ chồng mù. Đến khi thành phố đã lên đèn, họ lại dắt nhau trở về mái nhà nhỏ. Nơi ấy, có mẹ già và hai đứa con thơ đang ngóng chờ...
Theo VNEXpress