Ảnh hưởng bất ngờ của Sao Hỏa đối với đại dương trên Trái Đất
Theo nghiên cứu mới, mặc dù Sao Hỏa có thể cách Trái Đất đến khoảng 225 triệu km, nhưng hành tinh này lại đang ảnh hưởng đến khí hậu nơi loài người sinh sống.
Sao Hỏa. Ảnh: NASA
Theo nghiên cứu được công bố hôm 12/3 trên tạp chí Nature Communications, bằng chứng địa chất có từ hơn 65 triệu năm trước và được lấy từ hàng trăm địa điểm trên khắp thế giới cho thấy các dòng hải lưu dưới biển sâu đã nhiều lần trải qua các thời kỳ mạnh lên hoặc yếu đi. Điều này xảy ra cứ 2,4 triệu năm một lần và được gọi là “chu kỳ lớn thiên văn”.
Các dòng chảy mạnh hơn, được gọi là xoáy nước khổng lồ hay dòng xoáy, có thể chạm tới đáy biển sâu nhất được gọi là vực thẳm dưới đại dương. Những dòng chảy mạnh này sau đó sẽ xói mòn những mảng trầm tích lớn tích tụ trong khoảng thời gian ổn định hơn trong chu kỳ. Nghiên cứu cũng cho thấy những chu kỳ này trùng với thời điểm xảy ra các tương tác hấp dẫn giữa Trái Đất và Sao Hỏa khi hai hành tinh này quay quanh Mặt Trời.
Đồng tác giả nghiên cứu, Giáo sư địa vật lý Dietmar Müller cho biết: “Trường hấp dẫn của các hành tinh trong hệ Mặt Trời giao thoa với nhau và sự tương tác này được gọi là cộng hưởng, làm thay đổi độ lệch tâm của hành tinh và quỹ đạo của chúng”.
Video đang HOT
Do sự cộng hưởng này, Trái Đất bị kéo lại gần Mặt Trời hơn một chút bởi lực hấp dẫn của Sao Hỏa, nghĩa là hành tinh của chúng ta tiếp xúc với nhiều bức xạ Mặt Trời hơn nên sẽ có khí hậu ấm hơn, trước khi trôi ngược trở lại vào 2,4 triệu năm sau.
Các tác giả của nghiên cứu mới đã sử dụng dữ liệu vệ tinh để lập bản đồ về sự tích tụ trầm tích dưới đáy đại dương trong hàng chục triệu năm. Họ phát hiện ra rằng có những khoảng trống trong hồ sơ địa chất, nơi trầm tích ngừng tích tụ trong các chu kỳ thiên văn này. Họ tin rằng điều này có thể liên quan đến các dòng hải lưu mạnh hơn, vì thời tiết ấm hơn do ảnh hưởng từ lực hấp dẫn của Sao Hỏa lên Trái Đất.
Những phát hiện này ủng hộ ý kiến cho mặc dù ở xa cách hàng trăm triệu năm, Sao Hỏa vẫn ảnh hưởng đến khí hậu trên Trái Đất. Tuy nhiên, các tác giả cũng nhấn mạnh trong tuyên bố, hiệu ứng nóng lên quan sát được này không liên quan đến hiện tượng nóng lên toàn cầu do việc thải khí nhà kính mà con người gây ra.
Mặc dù chỉ mang tính suy đoán ở giai đoạn này, các phát hiện cho thấy chu kỳ nói trên có thể giúp duy trì định kỳ một số dòng hải lưu sâu trong đại dương, trong trường hợp hiện tượng nóng lên toàn cầu làm chúng suy giảm.
Giáo sư Müller cho biết: “Chúng tôi biết có ít nhất hai cơ chế riêng biệt góp phần tạo nên sức mạnh của sự hòa trộn dòng nước sâu trong đại dương”. Ông nói một trong những cơ chế này được gọi là Vòng tuần hoàn kinh tuyến Đại Tây Dương (AMOC) – hệ thống dòng chảy chính ở Nam và Bắc Đại Tây Dương và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống khí hậu. Nó hoạt động như một “băng chuyền” dưới đại dương, mang nước ấm từ vùng nhiệt đới đến Bắc bán cầu.
Adriana Dutkiewicz, tác giả chính của nghiên cứu và là nhà nghiên cứu trầm tích tại Đại học Sydney nói: “Dữ liệu biển sâu trong 65 triệu năm mà chúng tôi có được cho thấy các đại dương ấm hơn có sự lưu thông mạnh mẽ hơn ở tầng sâu, giúp đại dương không bị ứ đọng ngay cả khi vòng tuần hoàn kinh tuyến Đại Tây Dương chậm lại hoặc dừng hoàn toàn”.
Giải mã bí ẩn đằng sau cồn cát sa mạc lớn nhất thế giới
Lần đầu tiên, t.uổi đời của một trong những loại cồn cát lớn nhất và phức tạp nhất trên Trái Đất đã được tính toán.
Cồn cát dạng sao, hay còn gọi là cồn cát kim tự tháp, được đặt tên theo hình dạng độc nhất vô nhị của chúng và có độ cao lên tới hàng trăm mét. Loại cồn cát này được tìm thấy ở châu Phi, châu Á và Bắc Mỹ, cũng như trên sao hỏa. Tuy nhiên, cho đến nay, các chuyên gia chưa đưa ra câu trả lời chắc chắn về thời gian hình thành của chúng.
Cồn cát Lala Lallia ở Ma Rốc. Ảnh: BBC.
Gần đây, các nhà khoa học đã khám phá ra một cồn cát tên là Lala Lallia ở Ma Rốc có t.uổi đời lên tới 13.000 năm. Tên gọi Lala Lallia (dịch theo ngôn ngữ bản địa nghĩa là "điểm thiêng liêng nhất") nằm trên sa mạc cát Erg Chebb ở phía Đông Nam Ma Rốc, cao khoảng 100 m so với các cồn cát xung quanh và rộng khoảng 700 m. Sau thời gian hình thành ban đầu, nó ngừng phát triển trong khoảng 8.000 năm, rồi tiếp tục mở rộng diện tích trong vài nghìn năm sau đó.
Theo các nhà khoa học, cồn cát dạng sao được hình thành khi những cơn gió ngược chiều đổi hướng. Giáo sư Geoff Duller của Đại học Aberystwyth cho biết, xác định niên đại của những cồn cát này giúp các nhà khoa học có thể phát triển nghiên cứu về thời tiết của niên đại đó.
Thông thường, t.uổi đời của các sa mạc đều được ghi chép trong lịch sử địa chất của Trái đất, nhưng t.uổi đời của các cồn cát sao vẫn vắng bóng cho đến ngày nay. Giáo sư Duller cho rằng điều này có thể là do kích thước của chúng quá lớn nên các chuyên gia không nhận ra rằng họ đang nhìn vào một cồn cát riêng biệt, thay vì một sa mạc rộng lớn.
"Những phát hiện mới về t.uổi đời của những cồn cát này có thể sẽ khiến nhiều người kinh ngạc về cách thức hình thành của chúng. Chúng có thể di chuyển với vận tốc khoảng 50cm mỗi năm", giáo sư Duller cho biết thêm.
Các nhà khoa học đã sử dụng một kỹ thuật gọi là xác định niên đại phát quang để xác định t.uổi đời của cồn cát, dựa trên thời điểm các hạt cát được tiếp xúc lần cuối với ánh sáng ban ngày. Cát được chôn dưới lòng đất càng lâu thì càng tiếp xúc nhiều với chất phóng xạ và tích tụ nhiều năng lượng. Khi các hạt cát được phơi dưới ánh đèn đỏ trong phòng thí nghiệm, chúng giải phóng năng lượng ở dạng ánh sáng và các nhà khoa học có thể tính toán t.uổi đời của chúng thông qua cường độ ánh sáng này.
Giáo sư Duller mô tả các hạt khoáng chất trong cát là "những cục pin nhỏ". Giáo sư Duller cho biết: "Trong phòng thí nghiệm, chúng tôi có thể thấy rõ ánh sáng từ những hạt cát này. Ánh sáng càng mạnh thì t.uổi đời các hạt trầm tích càng lớn".
Radar xuyên đất của NASA quét sâu 20m, "bằng chứng kiếp trước" trên sao Hỏa lộ diện Những phát hiện dù là nhỏ nhất trên sao Hỏa vẫn luôn khiến các nhà khoa học phấn khích. Theo tin tức vũ trụ mới nhất đăng đồng loạt trên báo chí phương Tây ngày 30/1, radar xuyên đất trên tàu thăm dò sao Hỏa Perseverance của NASA đã xác nhận rằng miệng núi lửa Jezero - được hình thành sau một vụ...