Ăn uống nhiều đường, tăng nguy cơ viêm khớp dạng thấp
Ăn uống nhiều đường không chỉ làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa, các bệnh về răng lợi… mà còn dễ làm tái phát viêm khớp dạng thấp.
Mối liên hệ giữa đường và viêm khớp dạng thấp
Những người bị viêm khớp dạng thấp có thể có các triệu chứng nặng lên sau khi tiêu thụ thực phẩm có nhiều đường. Một nghiên cứu gần đây ở Hoa Kỳ cho thấy thực phẩm chứa nhiều đường có thể làm tăng các triệu chứng viêm khớp dạng thấp như đau, sưng và cứng khớp.
Những người bị viêm khớp dạng thấp đã được phát hiện có một loại kháng thể trong cơ thể của họ được gọi là kháng thể protein chống citrullinated – gọi tắt là ACPA (anti-citrullinated protein antibodies). Các kháng thể này có thể gây ra tình trạng viêm và gây ra viêm khớp dạng thấp.
Các chuyên gia tin rằng nồng độ đường cao có thể khiến cơ thể tạo ra nhiều chất ACPA, hậu quả làm cho các triệu chứng viêm khớp dạng thấp trở nên tồi tệ hơn.
Đường và thực phẩm nhiều đường có thể làm tăng các triệu chứng viêm khớp dạng thấp.
Một số nghiên cứu cũng cho thấy, dùng quá nhiều đường có thể làm tăng nồng độ đường huyết, dẫn đến rối loạn chất béo, chất đạm và gây tổn thương mạch m.áu, dây thần kinh bao xung quanh ổ khớp. Đây là điều kiện để quá trình phá hủy màng bao hoạt dịch và sụn khớp ở bệnh viêm khớp dạng thấp diễn ra nhanh hơn.
Những người sử dụng hàm lượng đường lớn trong thực đơn dinh dưỡng hằng ngày thường có mật độ xương thấp hơn hẳn. Xương bị rỗng và rất dễ gặp các tổn thương. Đồng thời nó còn làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường khiến việc điều trị viêm khớp dạng thấp gặp nhiều khó khăn.
Đường cũng được chứng minh là ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật đường ruột. Hệ vi sinh vật đường tiêu hóa góp phần tăng cường và cân bằng hệ miễn dịch của cơ thể. Những người bị viêm khớp dạng thấp đã được phát hiện có hệ vi sinh vật đường ruột mất cân bằng và đường có thể “khuyến khích” sự phát triển của vi khuẩn xấu trong đường ruột, kết quả làm gia tăng tình trạng viêm toàn thân và có thể dẫn đến làm tăng tái phát triệu chứng viêm khớp dạng thấp.
Video đang HOT
Nghiên cứu ở Hoa Kỳ cho thấy những phụ nữ uống 1 cốc soda có đường mỗi ngày có nguy cơ mắc bệnh viêm khớp dạng thấp cao hơn khoảng 60% so với những phụ nữ uống ít hơn 1cốc mỗi tháng.
Giảm lượng đường có làm giảm triệu chứng của viêm khớp dạng thấp?
Nhiều nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, chỉ cần giảm mạnh đường khỏi chế độ ăn uống, bệnh nhân sẽ giảm cân và giảm các triệu chứng viêm khớp dạng thấp. Một trong những cách đơn giản nhất để cắt giảm một lượng lớn đường khỏi chế độ ăn là tránh thức ăn và đồ uống có nhiều đường.
Đọc kỹ nhãn thực phẩm và kiểm tra nhãn dinh dưỡng, bạn có thể theo dõi lượng đường trong mỗi khẩu phần. Các bác sĩ khuyên những người bị viêm khớp dạng thấp nên giữ lượng đường bổ sung ở mức dưới 5% tổng lượng calo trong hàng ngày của bạn. Lượng đường và muối ăn khuyến cáo nên dùng: không quá 6 muỗng nhỏ (muỗng cà phê) đường cát và 1 muỗng nhỏ (muỗng cà phê) muối ăn cho mỗi ngày.
Người mắc bệnh viêm khớp dạng thấp cần xây dựng thói quen ăn uống lành mạnh. Các loại bánh kẹo, nước uống có ga, hoặc ăn mặn, ăn vặt thường xuyên có thể khiến hoạt động tái tạo xương khớp bị ảnh hưởng. Điều này gây ra các tác động xấu đến hoạt động của hệ xương khớp (nguyên nhân khởi phát khiến các khớp bị viêm).
Do đó để phòng ngừa viêm khớp nên hạn chế các loại thực phẩm sau: bánh ngọt, nước ngọt, các món ăn vặt, thực phẩm muối chua… Với những người đang điều trị đường nếu muốn dùng đường thì nên dùng các loại đường giảm cân hoặc mật ong trong một số trường hợp để giảm bớt các tác động đến cân nặng và hệ thống xương khớp.
Viêm khớp dạng thấp là bệnh tự miễn có tính chất hệ thống và tiến triển dai dẳng. Bằng cách thay đổi một số thói quen ăn uống và theo dõi lượng đường ăn vào, những người bị viêm khớp dạng thấp có thể giảm các triệu chứng liên quan đến bệnh lý tự miễn dịch này.
Điều quan trọng bạn cần nhớ là viêm khớp dạng thấp là một rối loạn viêm mãn tính, vì vậy bất cứ thứ gì tạo ra tình trạng viêm trong cơ thể đều có thể làm cho các triệu chứng tồi tệ hơn, chẳng hạn như đường.
Nhận biết viêm khớp dạng thấp v.ị t.hành n.iên
Viêm khớp dạng thấp v.ị t.hành n.iên (JRA) là loại bệnh viêm khớp phổ biến nhất ở trẻ dưới 16 t.uổi. Bệnh này có nhiều dạng khác nhau, mỗi dạng sẽ gây ra những ảnh hưởng và biến chứng nhất định đối với sức khỏe của trẻ.
Viêm khớp dạng thấp v.ị t.hành n.iên còn có tên gọi khác là viêm khớp tự phát chưa thành niên, là một loại bệnh viêm khớp phổ biến nhất ở trẻ dưới 16 t.uổi. Bệnh thường gây ra các triệu chứng như sưng, cứng và đau khớp kéo dài.
Triệu chứng của bệnh JRA
Trẻ mắc bệnh JRA có thể có các triệu chứng đau, cứng, đỏ, nóng hoặc sưng ở một vài khớp. Các triệu chứng này thường trở nên tồi tệ hơn vào buổi sáng, trước khi trẻ bắt đầu hoạt động thể chất.
Nếu con bạn đi khập khiễng mà không rõ nguyên nhân hoặc vụng về bất thường, thì khả năng cao là do bệnh JRA gây ra. Đôi khi, một số cơ quan nội tạng cũng có thể bị ảnh hưởng.
Trong một số trường hợp, JAR có thể gây sưng hạch bạch huyết, phát ban nhẹ không rõ nguyên nhân hoặc sốt. Một số trẻ thỉnh thoảng bị các cơn bệnh cấp, trong khi những đ.ứa t.rẻ khác có các triệu chứng mạn tính không bao giờ biến mất.
Một số trường hợp mạn tính nặng gây nguy hiểm đến tính mạng vì nó có thể làm rối loạn sự phát triển của xương và ngăn sự tăng trưởng của cơ thể trẻ. Bệnh JAR có thể gây ra một số biến chứng nguy hiểm, ví dụ như viêm mắt hoặc các vấn đề về tăng trưởng.
Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, đều có thể kiểm soát các triệu chứng bằng thuốc và vật lý trị liệu. Mục tiêu chính của việc điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp v.ị t.hành n.iên là giảm sưng, giảm đau và giúp trẻ duy trì được các cử động ở khớp, đồng thời đối phó với mọi biến chứng có thể xảy ra.
Viêm khớp dạng thấp nếu không được điều trị kịp thời sẽ gây biến chứng ảnh hưởng tới sức khỏe.
Các loại thể bệnh JAR
Thể viêm đa khớp
Thể viêm đa khớp có nhiều khả năng tồn tại sau thời thơ ấu và chiếm khoảng 30% các trường hợp mắc JRA. Dạng JRA này thường ảnh hưởng đến 5 khớp trở lên, bao gồm cả các khớp nhỏ (tay và chân), hoặc các khớp lớn hơn (đầu gối và vai). Nó có xu hướng gây tổn thương đến các khớp ở cùng một bên cơ thể. Ngoài ra, những t.rẻ e.m mắc phải thể bệnh này cũng thường bị thiếu m.áu.
Thể viêm ít khớp
Đây là dạng JRA phổ biến nhất, chiếm khoảng một nửa số trường hợp mắc bệnh, thường ảnh hưởng đến 4 hoặc ít khớp hơn, và chủ yếu là những khớp lớn như đầu gối. Theo nghiên cứu, có 20-30% t.rẻ e.m bị JRA thể viêm ít khớp phát triển thành chứng viêm ở mắt, dẫn đến mất thị lực. Do đó, các bậc cha mẹ nên cho con đi thăm khám mắt thường xuyên.
Thể hệ thống
Hay còn được gọi là bệnh Still, là dạng JRA ít phổ biến nhất nhưng nghiêm trọng nhất. Thể bệnh này có thể gây sưng, đau khớp, sốt cao, phát ban nhẹ trên ngực, đùi hoặc các bộ phận khác của cơ thể. Ngoài ra, nó cũng có thể gây viêm gan, lá lách và các hạch bạch huyết.
Một đ.ứa t.rẻ bị JRA thể hệ thống có khả năng lâm vào tình trạng thiếu m.áu. Bé có nguy cơ viêm khớp nặng ở nhiều khớp kéo dài đến t.uổi trưởng thành. Thậm chí, JRA thể hệ thống có thể đe dọa đến tính mạng nếu nó gây viêm màng ngoài tim (mô xung quanh tim). Nhìn chung, dạng JRA này thường chiếm khoảng 20% các trường hợp mắc bệnh.
Lưu ý
Nếu con bạn có các triệu chứng nghi ngờ mắc bệnh viêm khớp dạng thấp v.ị t.hành n.iên, bạn nên đưa trẻ đến khám bác sĩ chuyên khoa thấp khớp nhi khoa để được chẩn đoán và điều trị sớm. Việc chẩn đoán sẽ bắt đầu bằng những câu hỏi về các triệu chứng của trẻ, làm một số xét nghiệm m.áu và có thể yêu cầu chụp X-quang.
Mặc dù các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm sẽ không chẩn đoán được JRA nhưng chúng có thể giúp loại trừ các nguyên nhân dẫn đến những triệu chứng của trẻ và giúp bác sĩ phân loại thể JRA mà trẻ có thể mắc phải.
Con bạn có thể được chẩn đoán mắc JRA nếu có các triệu chứng kéo dài hơn 6 tuần và không có nguyên nhân nào khác được xác định. Việc điều trị cho viêm khớp dạng thấp v.ị t.hành n.iên cần được bắt đầu ngay từ sớm và tập trung chủ yếu vào việc kiểm soát các triệu chứng đau, đồng thời cải thiện các chức năng và tổn thương do bệnh gây ra.
Cách ngừa sỏi tiết niệu tái phát Sỏi tiết niệu là những loại sỏi như sỏi thận, sỏi niệu quản và sỏi bàng quang, có thể được hình thành khi những chất như canxi, oxalate, phosphate và urat tập trung nhiều trong nước tiểu. Sỏi tiết niệu là bệnh khá thường gặp ở nước ta, chiếm tỉ lệ 5- 10% dân số. Tỉ lệ mắc sỏi tiết niệu tái phát...